TRANG THƠ HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG
  • TRANG CHỦ
  • THƠ SÁNG TÁC
    • THƠ MỚI >
      • Thơ sáng tác phần 1
      • Thơ sáng tác phần 2
      • Thơ sáng tác phần 3
      • Thơ sáng tác phần 4
      • Thơ sáng tác phần 5
    • THƠ ĐƯỜNG
  • THƠ DỊCH
    • Thơ dịch chữ Hán
    • Thơ Anh
    • Thơ Pháp
    • Thơ dịch các nước khác
  • Trang ghi chép
  • LIÊN HỆ

Thơ SERBIA (tt)

2/16/2017

0 Comments

 

                          Desanka Maksimovic
                              (1898 – 1993)- Serbia

Picture

    Desanka Maksimovic là viết theo tiếng Anh, tiếng Serbia là Desanka Maksimović.
     Bà được sinh ra tại làng Rabrovica, gần Valjevo và mất tại Belgrade. Bà là tiểu thuyết gia, nhà văn viết truyện trẻ em, sáng tác các bài hát, đôi lúc xử lý các bản dịch, chủ yếu là thơ, qua các  tiếng Nga, Slovenia, Bulgaria, Pháp...Là một nhà thơ trữ tình Serbia nổi tiếng.
Ngoài ra bà còn làm giáo sư văn học và là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Serbia.
Bà đã xuất bản khoảng năm mươi tập thơ; viết nhiều bài hát và những câu chuyện cho trẻ em; viết nhiều tiểu thuyết và các văn bản du lịch.
Bà đã nhận rất nhiều giải thưởng văn học, tiêu biểu như: Giải thưởng Rồng (1958 và 1973), giải thưởng "Thế hệ trẻ" (1959). giải thưởng “Golden Wreath" (1988) Và được bầu làm công dân danh dự của Valjevo.
      Ngày 12.2. 1993 . Chính phủ Serbia đã quyết định việc thành lập quỹ mang tên  "Desanka Maksimovic" để trao tặng các giải thưởng cho những người xuất sắc.
    Ngày 23.8. 2007, Desanka Maksimović đã được xây tượng đài kỷ niệm ở  Belgrade.
Desanka Maksimovic được đánh giá là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của thế kỷ 20 trong tiếng Serbia.

Một vài bài thơ
1)
 + Nguyên tác: Tiếng Serbia (tiếng của dân tộc Bosnia)
        Strepnja
            Desanka Maksimovic
 
Ne, nemoj mi prici| Hocu izdaleka
da volim i zelim tvoja oka dva.
Jer sreca je lepa samo dok se ceka,
dok od sebe samo nagovestaj da.
 
Ne, nemoj mi prici| Ima vise drazi
ova slatka strepnja, cekanje i stra'.
Sve je mnogo lepse donde dok se trazi,
o cemu se samo tek po slutnji zna.
 
Ne, nemoj mi prici| Nasta to i cemu?
Izdaleka samo sve ko zvezda sja;
izdaleka samo divimo se svemu.
Ne, nek mi ne pridju oka tvoja dva |
                         Desanka Maksimovic
 
+ Bản dịch tiếng Anh
Bản dịch1: (Của 1 tác giả chưa rõ tên đã tạm dịch theo sát nghĩa)
               Anxiety
 
No, don't approach me! I wish from distance
to love and want your two eyes.
For happiness is pretty only while you wait for it,
while it's giving only a hint of itself.

No, don't approach me! There is more joy
in this sweet awe, waiting and fear.
Everything is much nicer while you search for it,
while you only know its trace. 

No, don't approach me! Why and what for?
From the distance only everything shines like a star;
From the distance only we admire everything.
No, let your two eyes don't approach me!
 
+ Bản dịch tiếng Việt:
          Lo ngại
 
Xin đừng đến! em cần anh khoảng cách
Cho tình yêu, cho đôi mắt của anh
Vì hạnh phúc chỉ đợi chờ mới đẹp,
Mới thăng hoa qua ẩn ý chân thành.
 
Xin đừng đến! để tình yêu nung nấu.
Trong mong đợi âu lo, trong ngưỡng mộ ngọt ngào.
Sẽ đẹp hơn khi chính anh tìm hiểu,
Nỗi mơ hồ mang dấu vết xôn xao.
 
Xin đừng đến! đừng hỏi vì sao thế?
Từ khoảng cách cho em rạng rỡ ánh sao trời.
Từ khoảng cách mọi điều ta cảm phục.
Đừng để em tiếp cận mắt anh soi!.
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch

+ Phụ lục bản dịch tiếng Anh hoàn chỉnh khác:
           Anxiety...
 
No, do not come to me! I want the distance to
I love and I want your two eyes.
Because happiness is just beautiful pending,
while by yourself just a hint of that.
No, do not come to me!
there are more love, this cute anxiety, waiting and fear.
It’s much better time while searching,
which is only just reckoned knows.
No, do not come to me! When it and why?
Shot only all star who shines;
shot just admire everything.
No, do not let me get near your two eyes!
              Writter : Desanka Maksimović

2)
          PREMONITION

          (PREDOSECANJE)
 
I recognized you when snow was melting 
melting, and a soft wind blowing 
closeness of spring intoxicating my soul 
intoxicating, so I cravingly inhale the air.
 
With gentleness I watched your footsteps trace 
trace on white snow 
and I knew that you would be dear to me 
dear throughout my life.
 
I recognized you on a reverberant day 
a drunk, fresh and soft day 
I had a feeling I’d always known you 
known though I just recognized you.
 
With gentleness I watched your footsteps trace 
trace on white snow 
and I knew that you would be dear to me 
dear throughout my life.
 
I recognized you when ice was melting 
ice, when spring breath is melting when 
day is one moment rosy, one moment wistful 
pale, when happiness and sadness collide.
 
With gentleness I watched your footsteps trace 
trace on white snow 
and I knew that you would be dear to me 
dear throughout my life.
                          –Desanka Maksimovic
 
+ Bản dịch thơ tiếng Việt:
Linh cảm báo trước
    (PREDOSECANJE)
 
Tôi nhận ra anh, tuyết vừa tan chảy.
tan chảy lan theo ngọn gió êm đềm.
cảm nhận mùa xuân, hồn say chếnh choáng.
thở khí trong lành, say khát vì tim.
 
Kiên nhẫn dịu dàng, tôi trông anh đến.
để dấu chân in trên tuyết trắng ngần.
tôi biết lòng anh sẽ dành yêu mến
yêu suốt cả đời từ những dấu chân.
 
Tôi nhận ra anh một ngày phản chiếu.
một nỗi say say, tươi mát dịu dàng.
tôi cảm thấy mình muốn quen muốn biết,
muốn biết về anh dù mới trông sang.
 
Kiên nhẫn dịu dàng, tôi trông anh đến
để dấu chân in trên tuyết trắng ngần.
tôi biết lòng anh sẽ dành yêu mến
yêu suốt cả đời từ những dấu chân.
 
Tôi nhận ra anh khi băng tan chảy
hơi thở mùa xuân hòa quyện đất trời.
khoảnh khắc ngày hồng chứa đầy ao ước
hạnh phúc, nỗi buồn xung đột chơi vơi.
 
Kiên nhẫn dịu dàng, tôi trông anh đến
để dấu chân in trên tuyết trắng ngần.
tôi biết lòng anh sẽ dành yêu mến
yêu suốt cả đời từ những dấu chân.
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
 

​

Picture

                       Tượng đài tưởng niệm Desanka Maksimovic
 

(*) Serbia: tên chính thức là Cộng hòa Serbia - là một quốc gia không giáp biển thuộc khu vực đông nam châu Âu
​

0 Comments

Thơ SERBIA (Serbian Lyric Poetry)

2/15/2017

0 Comments

 

                    Jovan Dučić (Jovan Ducic)
                          (1871-1943) – Serbia

.

Picture

 Jovan Dučić, còn viết theo tiếng Anh là Jovan Ducic. Ông sinh ra ở Trebinje, thuộc Bosnia-Herzegovina. Ông là giáo viên, nhà văn, nhà ngoại giao, nhà thơ trữ tình hiện đại nổi tiếng của của Serbia. Thơ ông có chịu ảnh hưởng của Rodenbach, Maeterlinck, Baudelaire, Verlaine, Albert Samain, mang dấu vết của thi đàn tượng trưng kết hợp với thơ truyền thống trữ tình của Serbia.
 
 
           Love poem
              (Ljubavna pesma) - Jovan Ducic
 
You are my moment and my dream, 
My glorious word within the sounds, 
You are as beautiful as you are secret, 
You are the truth as much as the lust.
 
Stay unreachable, silent and far, 
For the dream of happiness is more than happiness itself. 
Be a one time flame, as youth. 
Let your shadow and echo be all to be remembered by.
 
The heart writes its history on a falling tear, 
On an immense pain whereon love marks its target. 
Truth is only the dreaming of the soul. 
A kiss is the most beautiful meeting in the world.
 
You are the image of my apparition, 
Your sunny décor knitted through my dream. 
You were the fascination of my thought, 
Symbol of all conceits, defeated and icy-cold.
 
But you don’t exist, nor have you ever done. 
Born within my silence and despair, 
From the Sun of my heart you were shining 
Because everything we worship – we have created ourselves.


+ Bản dịch thơ tiếng Việt:

        Bài hát tình yêu
                  (Ljubavna pesma)
 
Em là mộng đã thành trong khoảnh khắc.
Lời của em mang âm hưởng ngọt ngào.
Em xinh đẹp như là em bí ẩn.
Lại thực vô cùng cho nhiều nỗi khát khao.
 
Trong lặng lẽ, xa xôi không thể với
Vì hạnh phúc mộng mơ hơn hạnh phúc đón mời.
Em là lửa thời gian cho tuổi trẻ.
Để bóng hình, tiếng vọng nhớ không nguôi.
 
Trái tim viết nên giọt buồn của mắt.
Trên nỗi đau mang dấu vết tình yêu.
Khi sự thực là giấc mơ tâm cảm.
Nụ hôn cho thế giới đẹp hơn nhiều.
 
Em hình ảnh của lòng tôi xuất hiện.
Tia nắng buông dệt nên giấc mơ hoa.
Em làm cho tâm trí tôi mê hoặc.
Đầy giá băng từ biểu tượng kiêu sa.
 
Không hiện thực mà cũng không tồn tại.
Trong lặng câm, trong tuyệt vọng tình tôi.
Từ mặt trời hồn đau, em tỏa sáng.
Từ mọi thứ tôn vinh, ta sáng tạo nên lời.
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch

 + Ghi chú:
  - Ljubavna pesma: (Bản tiếng Anh dịch là" Love poem" ) Nghĩa của tiếng Serbia : Bài hát tình yêu.

0 Comments

Thơ Bồ Đào Nha (Portugal)    

2/1/2017

0 Comments

 

                 Florbela Espanca
                           (1894 – 1930)- Bồ Đào Nha

Picture

          Florbela Espanca tên là Bela Flor Lobo, bà sinh ở Vila Vicosa, Alentejo, và mất  tại Matosinhos, Bồ Đào Nha. Florbela là một trong những phụ nữ đầu tiên ở Bồ Đào Nha đã theo học luật tại Đại học Lisbon. Cuộc đời bà đầy biến động và đau khổ.
        Mặc dù chỉ sống 36 tuổi nhưng là tác giả đa diện viết về nhiều lĩnh vực như thơ, truyện ngắn, nhật ký và thư; bà còn là dịch giả đã dịch nhiều tiểu thuyết và còn là nhà báo viết cho nhiều tạp chí , nhiều tờ báo, nhưng nổi bật hơn hết vẫn là nhà thơ. Thơ của bà hầu hết viêt theo thể sonnet, đã xuất bản 6 tập thơ như "Book of Sorrows", "Heath Blossom", "sonnet Full" v.v...Thơ của bà được nhiều nhà soạn nhạc ở Bồ Đào Nha biên soạn chuyển thể thành bài hát và được nhiều ca sĩ nổi tiếng trình bày.
       Năm 1949, Hội đồng thành phố Lisbon đã lấy tên bà đặt cho tên một đường phố bên cạnh Giáo hội Avenue tại Alvalade. 
Một vài bài thơ:
 
- Bài 1:  
 + Nguyên tác: Tiếng Bồ Đào Nha (Portuguese):            
                    Ser Poeta

                    by Florbela Espanca
 
Ser poeta é ser mais alto, é ser maior
Do que os homens! Morder como quem beija!
É ser mendigo e dar como quem seja
Rei do Reino de Aquém e de Além Dor!
 
É ter de mil desejos o esplendor
E não saber sequer que se deseja!
É ter cá dentro um astro que flameja,
É ter garras e asas de condor!
 
É ter fome, é ter sede de Infinito!
Por elmo, as manhãs de oiro e cetim…
É condensar o mundo num só grito!
 
E é amar-te, assim, perdidamente…
É seres alma e sangue e vida em mim
E dizê-lo cantando a toda a gente!
 
 +Bản dịch tiếng Anh của Kay Cosgrove:  
          To Be a Poet
                  by Florbela Espanca
 
To be a poet is to be taller, to be larger 
Than men. To bite like others kiss. 
It is to be a beggar and to give like you are king
of the kingdom of brief and ever-lasting pain. 
 
It is to have a thousand wishes, splendor
And not even know what you desire.
It is to have here inside a star, a flame.
It is to have the condor’s talons and wings.
 
It is to be hungry, to thirst for the infinite.
The gold and satin mornings like an antique helmet;
It is to condense the world into a single cry,
 
And it is to love you, even so, desperately.
You are the soul, the blood, and the life in me
And I tell it to everyone through my song. 
       translated from Portuguese by Kay Cosgrove
 
 + Bản dịch thơ tiếng Việt:                          
                Để thành thi sĩ

 
Để trở thành nhà thơ thì phải cao hơn, phải quảng bác nhiều hơn
so với những đàn ông. Phải cắn như người khác hôn.
Phải là kẻ ăn mày, phải biết cho, xem anh như là hoàng đế
của vương quốc tóm thâu và bao giờ cũng mang nỗi đau sau chót.
 
Phải có nghìn điều ước huy hoàng.
Và thậm chí không hề biết những gì mà anh khao khát.
Phải có anh ở đây, trong vì sao, ngọn lửa.
Phải có móng vuốt và cặp cánh của loài chim kền kền.
 
Phải bị bỏ đói, bỏ khát đến vô cùng tận.
Những buổi sáng trời vàng mượt mà lộng bóng như chiếc mũ cổ xưa.
Phải làm thế giới ngưng tụ lại trong tiếng gào đơn độc.
 
Và đó là để yêu anh ngay cả khi lòng thất vọng.
Anh là linh hồn, là máu, là sự sống ở trong em.
Và em phải kể về nó để mọi người hiểu được bài hát của em.
                    HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
 
- Bài 2:
 +  Nguyên tác tiếng Bồ Đào Nha ( Portuguese):                            Verses de Orgulho
                           by Florbela Espanca

O mundo quer-me mal porque ninguém

Tem asas como eu tenho! Porque Deus

Me fez nascer Princesa entre plebeus

Numa torre de orgulho e de desdém.
 
Porque o meu Reino fica para além …

Porque trago no olhar os vastos céus

E os oiros e clarões são todos meus!

Porque eu sou Eu e porque Eu sou Alguém!
 
O mundo ? O que é o mundo, ó meu Amor ?

—O jardim dos meus versos todo em flor…

A seara dos teus beijos, pão bendito…
 
Meus êxtases, meus sonhos, meus cansaços…

—São os teus braços dentro dos meus braços,

Via Láctea fechando o Infinito.
 
 + Bản dịch tiếng Anh của Kay Cosgrove:    
           Verses of Pride

                    by Florbela Espanca
 
The world distains me because nobody
Has wings like mine. Because God
Begot me princess among the people
In a tower of pride and disgust.
 
Because my Reign goes beyond here.
Because I bring in my look the vast skies
And the gold and lightening are all mine.
Because I am who I am and because I am somebody.
 
The world? What is the world, oh my Love?
—The garden of my verses all in bloom,
The wheat field of your kisses like blessed bread.
 
My ecstasy, my dreams, my fatigue,
—They are your arms inside my arms,
the Milky Way closing the Infinite. 
            translated from Portuguese by Kay Cosgrove
 
 + Bản dịch thơ tiếng Việt:
        Nàng thơ kiêu hãnh
 
Thế giới làm mất danh dự tôi bởi vì không ai
có cánh như tôi. Bởi vì Thượng đế
đã tạo ra tôi là bà hoàng giữa con người.
Tôi ở trong tòa tháp nguy nga và bị xem rẻ.
 
Bởi vì vương quốc của tôi vượt xa hơn ở đây.
Bởi vì tôi mang trong cái nhìn của mình cả bầu trời rộng lớn.
Tất cả vàng và ánh sáng là của tôi.
Bởi vì tôi là tôi, và bởi vì tôi còn là ai đó.
 
Thế giới? Thế giới là gì? Ôi, tình yêu của tôi!
Khu vườn thi ca của tôi ngập tràn hoa nở.
Cánh đồng vàng chứa đầy nụ hôn của anh là bánh mì ban phúc.
 
Cảm xúc tột cùng của tôi, điều mơ mộng của tôi, công việc lao khổ của tôi.
Chúng là tay anh khoác vào tay tôi.
Dải Thiên hà kết thúc vô định.
                  HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch        

0 Comments

Thơ Bỉ (Belgium)

2/1/2017

0 Comments

 

                         Bénédicte Houart
                        (Sinh năm 1968) – Bỉ (Belgium)

Picture

 Bénédicte Houart được sinh ra tại Bỉ. Cô đã lấy bằng Thạc sĩ Triết học, làm giảng viên đại học khoa Mỹ học.Là nhà văn, nhà thơ, dịch giả, nhà soạn nhạc và kịch, và cũng vừa là diễn viên, ca sĩ. Hiện cô đang sống ở Coimbra (một đô thị ở Bồ Đào Nha). Cô đã xuất bản thơ từ năm 2000.
Vài bài thơ:
I)
+ Nguyên tác: (Tiếng Bồ Đào Nha)

já penélope não sou
 

já penélope não sou
nem ulisses regressa
mudo de nome noite
a noite ao sabor da saliva
dos meus amantes
de dia troco lençóis
coso bainhas
descanso os olhos
dantes tecia para
enganar a corte que
me servia de prisão
agora chamo-me eu
não tenho estado civil e
na cela que me tem cativa
tornei-me finalmente livre
 
+ Bản dịch tiếng Anh:

I am penelope no more
 
I am penelope no more
nor does ulysses return
my name changes night
by night to the taste
of my lovers’ tongues
in the day I change bed sheets
I sew seams
I rest my eyes
long ago I used to weave
to deceive the circle
that imprisoned me
now my name is I
I have no civil rights
in the cell that locks me up
I became free at last
         Translated by Ana Hudson, 2010
 
+ Bản dịch tiếng Việt:

Tôi không hơn nàng Penelope  
 
Tôi không hơn nàng Pi-ni-lớp        (1)
cũng không làm cho Iu-lit-xi.trở lại (2)
tên tôi làm thay đổi bóng đêm
bởi ban đêm là để nếm hương vị
ngôn ngữ của người tôi yêu
ban ngày tôi thay đổi tấm ra giường
tôi khâu nối đường viền
tôi vẫn còn đôi mắt
từ lâu tôi đan kết
những dối lừa vây quanh
đã giam nhốt đời mình
giờ tên tôi là tôi
tôi mất quyền công dân
trong căn nhà khóa giữ
tôi thành kẻ tự do cuối cùng.
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
        (Theo bản dịch tiếng Anh của Ana Hudson)
 
 (*) Chú thích:
(1) Penelope (Pi-ni-lớp):Tiếng Anh có nghĩa là người vợ chung thủy.       Trong thần thoại Hy Lạp, Penelope là vợ của Odysseus,  người anh hùng đã triệt hạ được thành Troia. Trong trận chiến này, Odysseus phải ra thành Troia,  và nàng Penelope - người vợ chung thủy đã chờ chàng trong hơn 20 mươi năm.
(2) Ulysses (Iu-lit-xi): Ulysses là tên gọi khác của Odysseus (hay Odyssey), một nhân vật anh hùng trong trường ca sử thi “Odysseus”, một tác phẩm với 12 nghìn câu thơ của đại thi hào Homer ( nhà thơ Hy Lạp cổ đại sống vào khoảng giữa thế kỷ thế kỷ
8 trước Công nguyên).   

II)
+ Nguyên tác: (tiếng Bồ Đào Nha)
são as mulheres que
 
são as mulheres que
fazem chorar as cebolas
como se descascassem a própria vida
e, arredondando-se então, descobrissem
um corpo, o seu
uma vida, a sua
e, no entanto, nada que de verdade
pudessem seu chamar
ou talvez sim, mas só
aquela gota de água salpicando
um canto do avental onde
desponta uma flor de pano colorida que
ainda ontem ali não ardia
 
+ Bản dịch tiếng Anh:
women are the ones...
 
women are the ones who
make the onions weep       (1)
as if they´ve peeled their own lives
and discovered, while becoming rounder,
one body, their body
one life, their life,
and yet this was nothing
they could truly call their own
or perhaps they could, but merely

that drop of water that speckled
a corner of their aprons where
a colourful cloth flower had budded, a flower
that wasn’t burning there just the day before
          Translated by Ana Hudson, 2010

+ Bản dịch tiếng Việt:
Phụ nữ là những người...
 
Phụ nữ là những người
làm điều xấu xa không ngờ nổi       (1)
như khi họ bóc trần cuộc sống của mình
và phát hiện ra bản chất phóng đãng
một cơ thể, cơ thể của họ
một cuộc đời, cuộc đời của họ,
nhưng điều này chẳng là gì
họ thực sự có thể nghe theo tiếng gọi của bản thân
hoặc có lẽ, họ chỉ đơn thuần
là giọt nước lốm đốm
nơi một góc tạp dề
có bông hoa vải đầy màu sắc đã ra nụ,
một bông hoa không bừng cháy chỉ có trong ngày hôm trước.
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
          (Theo bản dịch tiếng Anh của Ana Hudson)

(*) Chú thích:
 (1) make the onions weep: hoặc “make an onion cry”: Theo Urban Dictionary giải thích: A descriptive phrase for someone that is incredibly ugly.(Một cụm từ mô tả cho một ai đó làm điều gì xấu xa đến nỗi không ngờ).  

 (*)Bỉ: Một quốc gia ở Tây Âu.

 
 
 
 
 

0 Comments

Thơ GRUZIA

2/1/2017

0 Comments

 

                           Diana Anphimiadi
                              (Sinh năm 1982) – Gruzia

Picture



Diana Anphimiadi sống ở thành phố Tbilisi, thủ đô của nước Gruzia, là một nhà thơ, nhà báo, nhà ngôn ngữ học, nhà phiên dịch  và giáo viên. Hiện nay Diana là một sinh viên tiến sĩ tại Viện ngôn ngữ học tại Đại học Tbilisi Javahkishvili. Cô đã xuất bản thơ từ năm 2008  và đã có bốn tập thơ, Về thơ,cô đã nhận Giải thưởng cuộc thi văn học Tsero (Crane) năm 2008, và giải thưởng văn học Saba (cuộc thi văn học quốc gia) năm 2009....
 
+ Nguyên tác bài thơ (original poem)
của
DianaAnphimiadi (tiêng George):

მაისის თაფლი

რა ადვილია რომ მიყვარდე
ანუ მაგრად მოვმუწო პირი
რომ ჩემს მუცელში მოზუზუნე
მუშა ფუტკრებმა
არ შეგატოვონ ფაქიზი და მყიფე ნესტარი,
მიყვარდე, ნიშნავს, რომ დაგიცვა
ჩემი კოცნისგან.

რა ადვილია, რომ მიყვარდე
კანის ფორებში – ფიჭის უჯრებში
გამოვჩეკო თბილი ჭუპრები:
შეხება
სუნი
მახსოვრობა
ჩვევა
შეჩვევა –
დავაფრთიანო
მოგცე სხვასთან ყოფნის უფლება.

რა ადვილია რომ მიყვარდე,
ყოველ დილით დავუხშო ბაგე
უსქესო ფუტკრებს
- შთაგონების მუშა ქალწულებს
მტვრითა და ცვილით ამოვლესო
ჩემი სკის კარი
მიყვარდე – ნიშნავს იყო შორს და
ჩემგან დაცული.
რა ადვილია, როგორც ოქროს მიწაში დაფლვა,
არადა ისე უმიზეზოდ დამწიფდა თაფლი.
შენ ხარ აქამდე
 
+ Bản dịch tiếng Anh của “Poetry Translation Centre” (Trung tâm dịch thuật thi ca)  
       May Honey              (1)
 
How easy it is to love you -
in other words, to seal my lips
so that the worker bees
can't leave their tender sting
in my stomach.
To love you means to protect you
from my kiss.

How easy it is to love you -
in each pore of my skin;
to hatch the warm chrysalis
in each cell of the honeycomb.
Touch, smell, memory, habit, familiarity -
to give wings to them all,
to give you the right to be with another.

How easy it is to love you -
to seal the mouth
of the sexless bees each morning
(those virgin muses)
to block with dust and dew
the opening of my beehive.
For me to love you,
you must stay at a distance,
protected from me -
easy as burying gold in the ground.
But honey is here without any reason.
And so are you.
Trích từ “Poetry Translation Centre”
 
+ Bản dịch thơ tiếng Việt:
Mật ngọt tháng Năm               (1)
 
Dễ dàng sao để biểu lộ yêu anh -
bằng ngôn ngữ khác hơn khi áp môi em đó.
cũng vì vậy nên các con ong thợ,
không để nọc xốn xang
nơi cõi lòng em.
Để yêu anh với cả nghĩa êm đềm
che chắn anh từ nụ hôn em đáp.
 
Dễ dàng sao để biểu lộ yêu anh -
từ mọi lỗ chân lông trên da em sửng sốt,
đã nở ra loài nhộng non ấm áp,
nằm trong ô  chia đầy khắp tổ ong,
Quen hít thở, vuốt ve, gợi nhớ hương nồng,
khiến cho chúng dường như đều mọc cánh,
khiến cho anh được có quyền đáp tặng.
 
Dễ dàng sao để biểu lộ yêu anh -
ghi dấu ấn bằng vành môi vô hạn.
cho loài ong không khát tình mỗi sáng,
(những nàng thơ trinh nữ vốn hồn nhiên)
đã khóa lòng ngăn chận bụi và sương,
đang muốn mở  cửa tổ ong em đó.
Để cho em được yêu anh bày tỏ.
anh phải nên trong khoảng cách dè chừng,
khoảng cách này được che chắn từ em –
dễ dàng như giấu chôn vàng trong đất.
Nhưng người yêu ở đây hoàn toàn bất nhất,
Và anh là vốn vậy của lòng em.
 
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
 
May Honey: Nghĩa đen: “Mật ong tháng 5”. Loại mật này còn có tên là “”Early Summer Honey” (Mật ong mùa hè sớm). Là loại mật được  loài ong lấy từ những loại cây nở hoa sớm từ đầu tháng 5 như hoa cây liễu, cây phong, chua me đất, anh đào, dâu tây, nho, táo.vv...có hương vị ngọt ngào đặc biệt. Bởi vậy, ở châu Âu người ta gọi tháng 5 là tháng ngọt ngào - và cũng là tháng lý tưởng cho tuần trăng mật của đôi vợ chồng vì tháng này có điều kiện thuận lợi về nhiệt độ, thời lượng nắng.vv..
      Về nghĩa bóng: Từ nguồn gốc xuất phát trên, ta có thể hiểu “May Honey” là “ Người yêu ngọt ngào” vì “Honey” (mật ong, viết gọn là Hun) còn là mỹ từ gọi tên cho người yêu, chồng, vợ...., và tháng 5 là tháng có hàm nghĩa ngọt ngào như đã nói.          
 

 (*) Gruzia là một quốc gia Âu Á ở tại vùng Kavkaz phía bờ đông biển Đen. Nước này có biên giới phía bắc giáp với Nga, phía nam với Thổ Nhĩ Kỳ và Armenia, phía đông với Azerbaijan. Đây là một quốc gia liên lục địa, nằm tại điểm nối Đông Âu và Tây Á.
 

0 Comments

Thơ Iraq

2/1/2017

0 Comments

 

                                  Kajal Ahmad
                   (Sinh năm 1967) – Iraq (dân tộc Kurd)

Picture

    Kajal Ahmad (còn viết là Kejal Ehmed) Sinh ra ở Kirkuk,dân tộc Kurd.  Ở tuổi 21, Kajal Ahmad bắt đầu xuất bản thơ và tuần tự về sau  đã xuất bản bốn cuốn sách:Benderî Bermoda (1999), Wutekanî Wutin (1999)
,Qaweyek le gel ev da , (2001) và şikand Awênem , (2004). Đồng thời cô trở thành nhà báo từ năm 1992
Thơ của cô
đã được dịch sang tiếng Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, Na Uy, Anh.

Bài 1:
The Lonely Earth
 
Neither do the white bodies of the universe
say good morning to her
nor do the handmade stars
give her a kiss.
Earth,where so many roses, fine sentiments are buried,
could die for want of a glance, a scent,
This dusty ball is lonely,
so very lonely,as she sees the moon's patched clothing
and knows that the sun's a big thief
who burns with the many beams he has taken
for himself and who looks at the moon and the earth
like lodgers.
 
+ Bản dịch thơ tiếng Việt:

Trái đất cô đơn
 
Không có những cơ thể trắng trong bầu vũ trụ.
để nói chào buổi sáng với nàng.
Cũng không có những ngôi sao tạo từ bàn tay.
để cho nàng một nụ hôn va chạm.
Trái đất nơi có nhiều hoa hồng,
Có nhiều tình cảm bị chôn cất.
Có thể chết đi vì thiếu một thoáng liếc nhìn,
hoặc một mùi hương ngây ngất.
Quả bóng đầy bụi này thật là cô đơn.
Rất đỗi cô đơn, như khi nàng thấy mảnh vá trang phục của mặt trăng,
và biết tên ăn trộm to lớn của mặt trời.
Đã đốt cháy nhiều chùm tia sáng và lấy đi
-cho chính hắn và những ai đã nhìn vào mặt trăng và quả  đất.
xem như những người khách trọ.
            HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch


Bài 2:
Were I a Martyr

I want no flowers,
no epoch of union,
no dawn of disunion.
I want no flowers
for I am the loveliest flower.
I want no kisses
if for a true wrist
I must hold some knight –
no epoch of marriage,
no dawn of divorce,
no widow's fever.
I want no kisses
if, along with love, I become a martyr.
I want no tears
over the coffin or me, a corpse.
I want no cherry tree of sympathy
dragged to the walls of my grave,
no flowers or kisses,
no tears or miseries.
Bring nothing.
Hold nothing.
I die as a homeland without a flag, without a voice.
I am grateful.
I want nothing.
I will accept nothing.
​
translated from the Kurdish by Darya Ali and
Alana Marie Levinson-LaBrosse

(Dịch từ tiếng Kurd, do Darya Ali và
Alana Marie Levinson - LaBrosse dịch)

 

+ Bản dịch thơ tiếng Việt:

Có phải tôi là kẻ chịu đọa đày
 
Tôi muốn không có hoa,
không có kỷ nguyên hợp nhất,
không xuất hiện phân chia.
 
Tôi muốn không có hoa,
để tôi là đóa hoa đáng yêu xinh đẹp nhất.
Tôi muốn không có nụ hôn.
nếu thực sự còn cú đánh tay,
tôi phải giữ vài hiệp sĩ để bảo vệ đàn bà.
Không nên có kỷ nguyên lễ cưới,
để không xuất hiện ly hôn,
không có cơn sốt gây nên nhiều quả phụ.
 
Tôi muốn không có những nụ hôn,
đến với tình yêu, tôi thành kẻ chịu đọa đày
Tôi muốn không có nước mắt
trên cỗ quan tài, hay tôi, một tử thi.
Tôi muốn đừng có cây anh đào tình cảm,
đâm rễ ảnh hưởng đến bức tường ngôi mộ của mình.
 
Không có hoa hoặc những nụ hôn,
không có nước mắt hoặc khổ đau,
không mong được gì.
không giữ được gì,
Tôi chết như một quê hương không có lá cờ, không có âm thanh tiếng nói.
 
Tôi rất biết ơn
Tôi muốn mình không là gì.
Tôi sẽ chấp nhận mình không là gì.
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch



3)Bài 3:
          Buttons

Among innocent kisses
the first button of my pink shirt
fell off.
Later, sewing,
her glasses like lasers fastened over her eyes,
the needle in her hands, like her fingers,
threatening, she spat out,
"Don't you put this in a poem!"
 
translated from the Kurdish by Darya Ali and
Alana Marie Levinson-LaBrosse

(Darya Ali và Alana Marie Levinson-LaBrosse dịch từ tiếng Kurd)

 
 
+ Bản dịch tiếng Việt:
      Những cúc áo
 
Qua những nụ hôn vô tội.
cúc áo thứ nhất trên chiếc sơ mi màu hồng của tôi
rơi xuống.
Sau đó phải khâu.
đôi kính của má như những tia la-de dán chặt trên mắt của bà.
cây kim trên tay bà cũng như những ngón tay,
 cùng đe dọa, má nhắc nhở tôi:
“Con không nên đề cập điều này trong bài thơ nào đấy!”
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
 
(*) Iraq: là một quốc gia ở miền Trung Đông, ở phía tây nam của châu Á


0 Comments

Thơ Persian (Ba Tư)

2/1/2017

0 Comments

 

                            Nadia Anjuman           
​                      (1980 - 2005) – Persian (Ba Tư)

Picture

      Nadia Anjuman là nhà thơ nữ Ba Tư ( Persian ) và cũng là nhà báo sống làm việc ở Afghanistan. Năm 2005, khi còn là một sinh viên tại Đại học Herat, cô đã xuất bản thi phẩm “ Gul-e-Dodi ( "Dark Red Flower"), tác phẩm được phổ biến lưu hành ở Afghanistan, Pakistan và Iran. Sau đó, vào ngày 04. 11. 2005, cô qua đời vì bị bạo lực gia đình. 
Vài bài thơ:
                   Ghazal
             
From this cup of my lips comes a song; 
It captures my singing soul, my song. 
That in my words is the meaning of ecstasy, 
That dies my happiness into grief, my song.
If you see that my eyes say a word, 
Then take it as my forgetfulness, my song.
Do not ask of love, O it tells me of you; 
My words of love speak of death, my song.
His hope, like flowers, I desire. 
No drop of my eyes is enough, my song.
The daughter of this place sings qasida, a ghazal, 
But what spoils her strange verses, my song?
O the gardener does not understand my happiness; 
O do not ask for many looks of my youth, my song.
From this hands, these feet and words, it looks strange 
That my name is written on the slate of this age, my song.
                      Translated by Khizra Aslam

+ Bản dịch tiếng Việt:
Bài thơ trữ tình Ba Tư
 
Từ cái cốc qua môi tôi đến một bài ca.
Nó bắt giữ linh hồn ca hát của tôi, thể hiện ra  bài hát của tôi.
Điều đó mang những lời nội tâm với cảm xúc tột cùng,
Điều đó làm hạnh phúc tôi chết trong nỗi đau qua bài hát của tôi.
Nếu anh thấy rằng đôi mắt tôi nói thành lời.
Để rồi nó bị lấy đi như nỗi lãng quên trong bài hát của tôi.
Đừng hỏi tôi về tình yêu, Ôi! nó bảo tôi là của anh;
Những lời tình yêu của tôi nói về cái chêt, ôi, bài hát của tôi!
Hy vọng của nó giống như những bông hoa làm tôi khao khát.
Không có giọt nước mắt của tôi đong đầy, ôi, bài hát của tôi!
Cô gái ở nơi này hát Qasida, một bài thơ trữ tình,
Nhưng điều gì làm hỏng những câu thơ kỳ lạ nơi cô, có từ bài hát của tôi?
Ôi! người làm vườn không hiểu hạnh phúc của tôi.
Ôi! đừng hỏi nhiều về tuổi trẻ của tôi qua bài hát của tôi.
Từ bàn tay này, gót chân này, lời nói này, nó có vẻ lạ lùng.
Đó là tên của tôi được viết trên phiến đá của thời đại này, ôi, bài hát của tôi!
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
    (Dịch theo bản tiếng Anh của Khizra Aslam)

No desire to open my mouth 
 
 No desire to open my mouth 
What should I sing of...? 
I, who am hated by life. 
No difference to sing or not to sing. 
Why should I talk of sweetness, 
When I feel bitterness? 
Oh, the oppressor's feast 
Knocked my mouth. 
I have no companion in life 
Who can I be sweet for? 
No difference to speak, to laugh, 
To die, to be. 
Me and my strained solitude. 
With sorrow and sadness. 
I was borne for nothingness. 
My mouth should be sealed. 
Oh my heart, you know it is spring 
And time to celebrate. 
What should I do with a trapped wing, 
Which does not let me fly? 
I have been silent too long, 
But I never forget the melody, 
Since every moment I whisper 
The songs from my heart, 
Reminding myself of 
The day I will break this cage, 
Fly from this solitude 
And sing like a melancholic. 
I am not a weak poplar tree 
To be shaken by any wind. 
I am an Afghan woman, 
It only makes sense to moan
           Translated by Mahnaz Badihian

+ Bản dịch tiếng Việt:
Không ao ước nào làm mở miệng tôi
 
Không ao ước nào làm mở miệng tôi
Cho tôi hát những gì về nó...?
Tôi, người đang căm ghét cuộc đời.
Không có sự khác biệt để hát hay không hát.
Tại sao tôi phải nói ngọt ngào,
Khi tôi cảm thấy đắng cay?
Ôi! bữa tiệc của người áp bức,
Đã đấm vào miệng tôi.
Tôi không có bạn đồng hành trong cuộc sống,
Ai có thể làm cho tôi dịu dàng?
Không có sự khác biệt để nói, để cười.
Để chết hay là tồn tại.
Tôi và sự cô đơn mệt mỏi.
Đau khổ và buồn rầu.
Tôi được sinh ra dành cho cõi hư vô.
Miệng tôi phải nên bịt kín.
Ôi! trái tim tôi, anh biết đó là mùa xuân
Và thời gian để thể hiện niềm hạnh phúc.
Tôi sẽ làm gì với một chiếc cánh bị mắc kẹt không để tôi bay?
Tôi đã im lặng quá lâu,
Nhưng tôi không bao giờ nguôi quên giai điệu.
Vì vậy mỗi lúc tôi thì thầm,
Những bài hát từ trái tim tôi.
Nhắc nhở cho bản thân tôi
Về ngày tôi sẽ phá vỡ chiếc lồng,
Bay ra từ sự cô đơn
Và hát như một lời sầu muộn.
Tôi không phải là cây dương yếu đuối,
Dễ bị lắc lay bởi ngọn gió nào.
Nhưng tôi là một phụ nữ Afghanistan,
Chỉ được có khả năng oán than rền rĩ.
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
( Theo bản dịch tiếng Anh của Mahnaz Badihian)

0 Comments

Thơ IRAN 

1/31/2017

0 Comments

 

                                Forugh Farrokhzad 
                                (1935 – 1967) - Iran

Picture

    Forugh Farrokhzad sinh ở Tehran. Ban đầu bà theo học vẽ và học may ở trường nghệ thuật thủ công. Bà lập gia đình năm 16 tuổi (1951) với một nhà văn nhưng đến năm 1954, họ ly dị. Năm 1955, bà xuất bản tập thơ đầu tay “The Captive”. Sau đó bà làm phim, năm 1962 bà nhận được giải thưởng quốc tế về phim tư liệu.Sau thời gian làm phim về bệnh phong, bà đã đem một cậu bé bị bệnh phong về nuôi ở tại nhà. Bà mất vì một tai nạn xe hơi năm 32 tuổi. Forugh Farrokhzad được đánh giá là nhà thơ nữ hiện đại  có ảnh hưởng lớn nhất của Iran trong thế kỷ 20.
        The Captive

want you, yet I know that never
can I embrace you to my heart's content.
you are that clear and bright sky.
I, in this corner of the cage, am a captive bird.

from behind the cold and dark bars
directing toward you my rueful look of astonishment,
I am thinking that a hand might come
and I might suddenly spread my wings in your direction.

I am thinking that in a moment of neglect
I might fly from this silent prison,
laugh in the eyes of the man who is my jailer
and beside you begin life anew.

I am thinking these things, yet I know
that I can not, dare not leave this prison.
even if the jailer would wish it,
no breath or breeze remains for my flight.

from behind the bars, every bright morning
the look of a child smile in my face;
when I begin a song of joy,
his lips come toward me with a kiss.

O sky, if I want one day
to fly from this silent prison,
what shall I say to the weeping child's eyes:
forget about me, for I am captive bird?

I am that candle which illumines a ruins
with the burning of her heart.
If I want to choose silent darkness,
I will bring a nest to ruin.
 
+ Bản dịch tiếng Việt:
Thân phận giam cầm
 
thiếu anh, nhưng tôi biết không bao giờ
có thể ôm anh với trái tim đồng thuận.
anh là bầu trời rạng rỡ, sáng trong.
tôi, ở trong góc chiếc lồng này, là con chim bị nhốt.
 
từ phía sau chấn song lạnh lèo tối tăm,
tôi nhìn thẳng về anh đầy ngạc nhiên thảm não.
tôi nghĩ rằng bàn tay anh có thể tìm với tới
và tôi có thể ngẫu nhiên sải cánh hướng về anh.
 
tôi nghĩ rằng trong khoảnh khắc lơ là,
tôi có thể bay ra từ ngục tù im lặng,
và nụ cười bằng mắt của người đàn ông cũng chính là người cai ngục của tôi
và bên anh cuộc sống trở lại bắt đầu.
 
tôi nghĩ đến những điều này nhưng tôi biết,
tôi không dám rời khỏi ngục tù
ngay cả khi người cai ngục thầm mong muốn nó,
không có làn hơi hay ngọn gió còn lại để tôi bay.
 
từ bên trong chấn song, mọi buổi sáng đi qua tươi đẹp
trên khuôn mặt tôi  biểu hiện cái nhìn của một đứa trẻ mỉm cười,
khi tôi bắt đầu một bài hát vui vẻ rộn ràng,
môi chàng hướng về tôi với một nụ hôn.
 
ôi, bầu trời! nếu tôi muốn có một ngày
để bay khỏi nhà tù im lặng này,
tôi sẽ nói những gì với đôi mắt trẻ con đang khóc:
hãy quên tôi đi, vì tôi là con chim bị giam cầm?
 
tôi là ngọn nến chiếu sáng trên đống đổ nát
với sự bừng cháy con tim của nó.
Nếu tôi muốn chọn sự im lặng, tối tăm,
tôi sẽ mang đến một tổ chim và làm hỏng nát.
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
    
 
(*) Iran: là một quốc gia ở Trung Đông, phía tây nam của châu Á. Trước 1935
, tên của nước này là Ba Tư.

0 Comments

Thơ Ba Tư (tt)

11/28/2016

0 Comments

 

                          Hafez (hoặc Hafiz)
                          (1321 – 1390) – Ba Tư

Picture

​           Hafez còn gọi là Hafiz, tên đầy đủ: Khwajeh Shams od-Din Muhammad Hafez-e Shirazi). Hafez sinh ở Shiraz, miền nam Ba Tư, là  học trò của Attar ở Shiraz, tương truyền ông thuộc lòng kinh Koran nên mới được gọi là Hafez. Ngoài ra, ông còn thuộc nhiều tác phẩm của Rumi, Saadi, Attar, Nezami..... Lớn lên Hafez trở thành nhà thơ và người đọc kinh Koran trong triều vua Abu Ishak ở thủ đô Esfahan nhưng sau ông xin thôi việc này. Ông còn giảng dạy tại một trường cao đẳng tôn giáo. Ông là một nhà thơ lớn và nổi tiếng nhất của Persia (Ba Tư) trung cổ ( tức là nước Iran cũ), và là một cây đại thụ trong nền văn hóa Persia.
            Tương truyền, Hafez đã làm khoảng 5.000 bài thơ nhưng nay chỉ còn khoảng từ 500 – 700 bài còn sót lại, trong đó có hàng trăm bài ghazal nổi tiếng thế giới. Người đời sau tập hợp thơ của ông thành tập Divan, nổi tiếng  là một tác phẩm kinh điển trong văn học Sufism. Ông mất năm 69 tuổi ở Shiraz.Thơ của ông còn ảnh hưởng cho đến ngày nay và được yêu thích nhất, có nhiều bài thơ được sử dụng như tục ngữ hay câu nói. (Theo các tư liệu của Bách khoa toàn thư Wikipedia).
Một số bài thơ của Hafez (Hafiz):


A)THƠ TỨ TUYỆT  BA TƯ (RUBAIYAT)
          Rubaiyat 1-10
          ( Hafiz - Translated by Shahriar Shahriari)
1
جز نـقـش تو در نـظر نیامد ما را 
جز کوی تو رهـگذر نیامد ما را 
خواب ارچه خوش آمد همه را در عهدت 
حـقا کـه بـه چشم در نیامد ما را
 
The only vision I have is your sight
The only thing I follow is your light.
Everyone finds his repose in sleep,
Sleep from my eyes has taken flight.

 
Em nhận thấy tôi mang tình ảo ảnh
Nhưng theo em vì em rực sáng ngời.
Ai cũng hiểu nó chỉ ngừng khi ngủ
Nhưng mắt buồn cứ thao thức chơi vơi.
 
2
بر گیر شراب طرب​انگیز و بیا
پنهان ز رقیب سفله بستیز و بیا
مشنو سخن خصم که بنشین و مرو
بشنو ز من این نکته که برخیز و بیا
 
Pick up the joy giving wine and come hither.
Temptations of mean foes decline and come hither.
Don’t listen to the one who says sit down and stay;
Listen to me, pick up the line and come hither.

 
Hãy đến đây đón niềm vui cùng rượu.
Dẫu hư hao vì cám dỗ tầm thường.
Đừng nghe ai, cứ ngồi và ở lại.
Hãy nghe tôi, đến nhặt mối tình vương.
 
3
گفتـم که لبت, گفت لبم آب حیات 
گفتم دهنت, گفت زهی حب نبات 
گفتـم سخن تو, گفت حافظ گفتا 
شادی همه لطیفه گویان صـلوات
 
I said, your lips said, your lips we revive;
I said, your mouth said, sweetness we derive;
I said your words, he said, Hafiz said;
May all sweet lips be joyous and alive.

 
Ta trao lời , môi em làm sống lại.
Lời môi em để hương vị ngọt ngào.
Những lời em, nghe rồi, Hafiz bảo:
Môi ngọt ngào rạng rỡ cả trăng sao.
.
4
ماهی که قدش به سرو می‌ماند راست 
آیینه به دست و روی خود می‌آراست 
دستارچه‌ای پیشکشش کردم گفت 
وصلم طلبی زهی خیالی که توراست
 
One, beautiful and full of grace
Mirror in hand, grooming her face
My handkerchief I offered, she smiled,
Is this gift also part of the chase?

 
Chỉ duy nhất vẻ đẹp đầy duyên dáng.
Chiếc gương trong soi khuôn mặt diễm kiều.
Nàng mỉm cười với khăn tay tôi tặng:
Món quà này cũng săn đuổi tình yêu.
 
5
.مـن باکـمر تو در میان کردم دسـت 
پنداشتمش که در میان چیزی هست 
پیداسـت از آن میان چو بربست کمر 
تا من ز کمر چه طرف خواهم بربسـت
I put my arms around your waist,
A lover’s embrace to taste.
From your resolve it’s obvious
All my efforts will go to waste

 
Tôi choàng tay quanh eo em thon thả.
Thấy đê mê khi ôm chặt người tình.
Em kiên quyết với lòng mình đã rõ.
Tôi trở thành phế thải trước hoa xinh.
 
6
تو بدری و خورشید تو را بنده شده‌ست 
تا بنده تو شده‌ست تابنده شده‌ست 
زان روی کـه از شـعاع نور رخ تو 
خورشید منیر و ماه تابنده شده‌ست
 
You are the moon and the sun is your slave;
As your slave, it like you must behave.
It is only your luminosity and light
That light of sun and moon can save.

 
Em là trăng để mặt trời nô lệ.
Nhưng muốn em phải cư xử đàng hoàng.
Dẫu chỉ là đổ cho em ánh sáng.
Trăng nhận rồi phải giữ ánh dương quang.
 
7
هر روز دلم بـه زیر باری دگر اسـت 
در دیده من ز هجر خاری دگر اسـت 
مـن جـهد همی‌کنم قضا می‌گوید 
بیرون ز کـفایت تو کاری دگراسـت
 
A new challenge everyday
You keep away and delay;
When I act to close the gap
Fate says there is a bigger play.

 
Mỗi ngày mới thêm một điều thách thức.
Em cất đi gây lần lữa lao đao.
Khi tôi cố thu hẹp dần khoảng cách.
Định mệnh bảo rằng đây vở kịch lớn lao.
 
8
ماهم که رخش روشنی خور بگرفت 
گرد خط او چشمه کوثر بگرفـت 
دلها همه در چاه زنخدان انداخت 
وآنگـه سر چاه را به عنبر بگرفت
 
My beloved is brighter than the sun,
Put in the heavens, my only one.
Placed the hearts upon the earth
To watch the sun’s daily run.

 
Người yêu tôi còn sáng hơn mặt nhật.
Của riêng tôi duy nhất cõi thiên đường.
Những trái tim vì nàng trên cõi đất.
Chờ mặt trời xoay chuyển đến vô phương.
 
9
امشب ز غمت میان خون خواهم خفت 
وز بستر عافیت برون خواهم خفت 
باور نکنی خیال خود را بفرسـت 
تا در نگرد که بی‌تو چون خواهم خفت
 
My broken heart’s sorrows are deep.
Painful, disturbed, broken my sleep.
If you don’t believe, send me your thoughts
And you will see how in sleep I weep.

 
Tim tôi vỡ mang nỗi buồn sâu thẳm.
Mang đớn đau luôn thao thức dày vò.
Nếu không tin em gửi hồn suy tưởng.
Sẽ thấy rằng tôi khóc ở trong mơ.
 
10
نی قصه آن شمع چگل بتوان گفـت 
نی حال دل سوخته دل بتوان گفـت 
غم در دل تنگ من از آن است که نیست 
یک دوست که با او غم دل بتوان گفت
 
Candle’s story how can I tell?
Of the broken heart’s living hell?
My sorrow is in how I can find
Another who knows these sorrows well.

 
Chuyện ngọn nến (1) làm sao tôi kể được.
Trái tim tan là địa ngục của đời.
Quá muộn phiền làm sao tôi bắt gặp.
Một kẻ nào còn đau khổ hơn tôi!
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
  (Theo bản dịch tiếng Anh của  Shahriar Shahriari)
 
Chú thích: Câu chuyện ngọn nến:Là câu chuyện ngụ ngôn về ngọn nến, có đại ý như sau:Cây nến sáp mang lại ánh sáng cho mọi người nhưng vì tính ích kỷ, tự phụ, lại hay mượn gió thổi tắt nên cây nến đã bị vứt vào ngăn tủ và bị thay thế bằng cây đèn..

Picture


 B) MỘT SỐ BÀI THƠ TRỮ TÌNH BA TƯ (GHAZALS) CỦA HAFIZ .
1)
Faithful Lover
 
The moon came to me last night
With a sweet question.
 
She said,
 
"The sun has been my faithful lover
For millions of years.
 
Whenever I offer my body to him
Brilliant light pours from his heart.
 
Thousands then notice my happiness
And delight in pointing
Toward my beauty.
 
Hafiz,
Is it true that our destiny
Is to turn into Light
Itself?"
 
And I replied,
 
Dear moon,
Now that your love is maturing,
We need to sit together
Close like this more often
 
So I might instruct you
How to become
Who you
Are!
                Translated by Daniel Ladinsky 
 
+ Bản dịch tiếng Viêt:
Người tình chung thủy
 
Trăng đã đến cùng tôi đêm qua
Với câu hỏi ngọt ngào.
 
Nàng hỏi:
 
“Mặt trời có phải là người yêu chung thủy của tôi
Cho cả triệu năm.
 
Khi tôi hiến dâng cơ thể cho chàng
Ánh sáng lấp lánh đổ vào trái tim anh ấy.
 
Hàng ngàn lần, để chàng lưu ý đến niềm hạnh phúc của tôi
Và niềm vui thổ lộ cùng chàng
Hướng về vẻ đẹp của tôi.
 
Hafiz ơi!
Có thực là định mệnh của chúng ta
Là để hóa thành ánh sáng
Cho chính mình?”
 
Và tôi trả lời:
 
Thưa trăng,
Hiện giờ tình yêu của cô đang sung mãn
Chúng ta cần ngồi lại với nhau
Gần sát nhau như thế này thường xuyên hơn
 
Như thế tôi có thể hướng dẫn cô
Làm thế nào để trở thành
Cô là
Ai vậy!
        HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
2)
The Day Sky
 
Let us be like
Two falling stars in the day sky.
 
Let no one know of our sublime beauty
As we hold hands with God
And burn
 
Into a sacred existence that defies -
That surpasses
 
Every description of ecstasy
And love.
                Translated by Daniel Ladinsky 
 
 
+ Bản dịch tiếng Việt:
Bầu trời ban ngày
 
Hãy để chúng ta được như thế
Hai ngôi sao rơi trong không gian ban ngày.
 
Để không ai biết về vẻ đẹp tuyệt vời của chúng ta
Như thể chúng ta đã nắm tay cùng Thượng đế
Và bừng cháy
 
Trong sự tồn tại thiêng liêng không nhượng bộ
Điều đó sẽ vượt trội hơn
 
Cả mọi sự diễn đạt về cảm giác ngất ngây
Và diễn đạt tình yêu.
        HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
 
3)
The Happy Virus
I caught the happy virus last night
When I was out singing beneath the stars.
It is remarkably contagious -
So kiss me.
                Translated by Daniel Ladinsky 
 
+ Bản dịch tiếng Việt:
Nguồn gây bệnh hạnh phúc
 
Đêm qua, tôi bắt gặp nguồn gây bệnh hạnh phúc.
Khi tôi ra ngoài trời hát dưới những vì sao.
Đó là sự truyền nhiễm tuyệt vời.
Vậy hãy cứ hôn tôi.
        HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
 
4)
It Felt Love

How
Did the rose
Ever open its heart

And give to this world
All its
Beauty?

It felt the encouragement of light
Against its
Being,

Otherwise,
We all remain

Too

Frightened.
                Translated by Daniel Ladinsky 
 
+ Bản dịch tiếng Việt:
Cảm giác tình yêu
 
Thế nào
Hãy làm cho hoa hồng
Bao giờ cũng mở cửa trái tim
 
Tặng cho thế giới này
Tất cả
Vẻ đẹp tuyệt vời của nó?
 
Hoa cảm thấy sự khích lệ của ánh sáng.
Tương phản với mình
Đang tồn tại.
 
Nếu không
Việc lưu giữ của tất cả chúng ta sẽ là điều
 
Quá ư
 
Sợ hãi
           HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
5)
The Subject Tonight is Love

The subject tonight is Love
And for tomorrow night as well,
As a matter of fact
I know of no better topic
For us to discuss
Until we all
Die!
                Translated by Daniel Ladinsky 
 
+ Bản dịch tiếng Việt:
Chủ đề tối nay là tình yêu
 
Chủ đề tối nay là tình yêu
Và cho cả tối mai cũng tuyệt vời như vậy.
Đó là vấn đề thực tế
Tôi biết sẽ không có đề tài nào tốt hơn
Để chúng ta bàn luận
Cho tới khi tất cả chúng ta
Qua đời!
           HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
 
6)
And For No Reason
 
And
For no reason
I start skipping like a child.
 
And
For no reason
I turn into a leaf
That is carried so high
I kiss the Sun's mouth
And dissolve.
 
And
For no reason
A thousand birds
Choose my head for a conference table,
Start passing their
Cups of wine
And their wild songbooks all around.
 
And
For every reason in existence
I begin to eternally,
To eternally laugh and love!
 
When I turn into a leaf
And start dancing,
I run to kiss our beautiful Friend
And I dissolve in the Truth
That I Am.
                Translated by Daniel Ladinsky 
 
+ Bản dịch tiếng Việt:
Và không có lý do
 
Và
Không có lý do
Tôi bắt đầu nhảy chân chim như đứa trẻ.
 
Và
Không có lý do
Tôi hóa thành chiếc lá
Thể hiện mình trên cao
Tôi hôn môi mặt trời
Để rồi tan chảy.
 
Và
Không có lý do
Một nghìn con chim
Chọn đầu tôi làm chiếc bàn tụ tập,
Khi khơi mào chấm dứt
Những cốc rượu vang
Và dàn nhạc hoang dã của bầy chim khắp đó đây trổi dậy.
 
Và
Đối với mọi lý do tồn tại
Tôi khởi sự cho muôn đời,
Với nụ cười vĩnh cửu của tình yêu!
Tôi hóa thành chiếc lá
Và bắt đầu múa theo,
Tôi vội vã hôn người bạn tình xinh đẹp của chúng ta
Hòa tan vào Sự Thực
Đó là tôi .
               HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
 
7)
Like Passionate Lips

There are
So many positions of
Love:

Each curve on a branch,

the thousand different ways
Your eyes can embrace us,

The infinite shapes your
Mind can draw,

The spring
Orchestra of scents,

The currents of light combusting
Like passionate lips,

The revolution of Existence's skirt
Whose folds contain other worlds,

Your every sign that falls against
His inconceivable
Omnipresent
Body.
                Translated by Daniel Ladinsky 
 
+ Bản dịch tiếng Việt:
Giống như những vành môi mê đắm
 
Có
Nhiều vị trí của
Tình yêu:
 
Mỗi đường cong trên một nhánh,
 
Hàng nghìn cách khác nhau
Đôi mắt em có thể ôm ấp chúng mình,
 
Hình dáng vô định của em
Tâm trí có thể vẽ.
 
Mùa xuân
Dàn nhạc của mùi hương.
 
Dòng ánh sáng đốt cháy
Giống như vành môi mê đắm.
Chiếc váy tồn tại qua bao lần cải tiến
Có nếp gấp chứa đựng nhiều thế giới khác nhau.
 
Mọi dấu hiệu của em rơi vào nghịch lý
Nhưng tâm trí không thể tưởng tượng
Có mặt khắp nơi
Trên thân thể.
              HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
 
8)
Let Thought Become Your 
Beautiful Lover

 
Let thought become the beautiful Woman.
 
Cultivate your mind and heart to that depth
 
That it can give you everything
A warm body can.
 
Why just keep making love with God's child-- Form
 
When the Friend Himself is standing
Before us
So open-armed?
 
My dear,
Let prayer become your beautiful Lover
 
And become free,
Become free of this whole world
Like Hafiz.
 
From: "The Gift: Poems By Hafiz - The Great Sufi Master".
                Translated by Daniel Ladinsky 
 
+ Bản dịch tiếng Việt:
Suy nghĩ trở thành người yêu đẹp đẽ của em
 
Hãy suy nghĩ trở thành người phụ nữ xinh đẹp.
 
Hãy trau dồi trí tuệ và trái tim em để có chiều sâu
 
Điều đó có thể cung cấp cho em mọi thứ
Một cơ thể nồng ấm.
 
Tại sao chỉ tỏ tình với đứa con của Thượng đế -
 
Khi hình thể tín đồ của chính ngài đang đứng
Trước chúng ta
Niềm nỡ ân cần?
 
Em yêu!
Hãy cầu nguyện để trở thành người yêu đẹp đẽ của em
 
Và trở thành tự do,
Trở thành tự do cho toàn thể thế giới này
Giống như Hafiz.
       HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
 
9)
A New World
 
Let’s offer flowers, pour a cup of libation,
split open the skies and start anew on creation.
If the forces of grief invade our lovers’ veins,
cupbearer and I will wash away this temptation.
With rose water we’ll mellow crimson wine’s bitter cup;
we’ll sugar the fire to sweeten smoke’s emanation.
Take this fine lyre, musician, strike up a love song;
let’s dance, sing all night, go wild in celebration.
As dust, O West Wind, let us rise to the Heavens,
floating free in Creator’s glow of elation.
If mind desires to return while heart cries to stay,
here’s a quarrel for love’s deliberation.
Alas, these words and songs go for naught in this land;
come, Hafez, let’s create a new generation.
Hafiz (1320-1389) (Orinial language: Persian/Farsi)
English translation: Haleh Pourafzal and Roger Montgomery
 
+ Bản dịch tiếng Việt
Một thế giới mới
 
Hãy dâng hoa và rót chén rượu lễ.
Hãy mở chia bầu trời và bắt đầu trở lại việc sáng tạo.
Nếu sức mạnh đau buồn tràn ngập khắp mạch máu của chúng ta.
Người hầu bưng chén rượu và tôi sẽ rửa sạch cám dỗ này.
Với nước hoa hồng chúng ta sẽ làm dịu đi vị đắng cay của ly rượu vang màu đỏ thẫm.
Chúng ta sẽ cho đường vào lửa để làm ngọt thơm làn khói tỏa ra.
Hãy cầm cây đàn Lia xinh xắn này, dạo lên bài hát tình yêu.
Để khiêu vũ, ca hát suốt đêm, vui phát cuồng cùng lễ hội.
Như cát bụi. Ơi! gió Tây, hãy đưa chúng tôi đến Thiên đường.
Hãy thả trôi tự do trong ánh sáng rực rỡ hân hoan của Tạo hóa.
Nếu tâm trí mong muốn trở về trong lúc trái tim kêu gào đòi ở lại,
Đây là sự tranh cãi cân nhắc của tình yêu.
Than ôi! những lời này, những bài hát này, vô nghĩa trên cõi đất này;
Hãy đến đây Hafez, hãy sáng tạo nên một thế hệ mới đang tìm đổi mới.
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
​(Từ phiên bản tiếng Anh của Haleh Pourafzal và Roger Montgomery

Picture
0 Comments

Thơ Ba Tư (tt)

11/28/2016

0 Comments

 

                              Saadi
          (Khoảng 1213 – 1291) – Ba Tư trung cổ
​

Picture

     Saadi là bút danh. Ông có tên thật là Muslih-ud-Din Mushrif-ibn-Abdullah, sinh ở  Shiraz. Ông học ở Baghdad nay thuộc thành phố ở Iran. Trong thời gian Mông Cổ xâm chiếm,  Ông  rời bỏ đất nước đi nhiều nơi như Aravi, Azecbaigian, Syria, Iran, Ai Cập, Ma-rốc.., từng tham gia chiến đấu chống thập tự quân La Mã, nhiều lần bị thương nặng suýt chết. Năm 1256, ông trở về Shiraz, chỉ tập trung vào việc sáng tác.
     Số lượng tác phẩm của ông rất đồ sộ. Trong đó có 2 tác phẩm chính nổi tiếng bất tử đó là Bostan (Vườn quả, trường ca 9 chương), viết năm 1257 và Gulistan (Vườn hồng , trường ca 8 chương ), viết năm 1258. Ngoài ra còn  có 4 tập thơ trữ tình, nhiều bài thơ lẻ và nhiều tiểu luận  về triết học.
      Saadi là một  trong những nhà thơ lớn của Ba Tư trung cổ, được tôn vinh như một bậc thầy vĩ đại trong truyền thống văn học cổ điển nổi tiếng về tài năng, tư tưởng, đạo đức. Những bài thơ, danh ngôn của ông được phổ biến ở các nước nói tiếng BaTư và ngay cả các nước ở phương Tây.
Vài bài thơ của Saadi:
1)
           The Dancer
                           - by Saadi 
                From the Bustan
 
I heard how, to the beat of some quick tune,
There rose and danced a Damsel like the moon,
Flower-mouthed and Pâri-faced; and all around her
Neck-stretching Lovers gathered close; but, soon
 
A flickering lamp-flame caught her skirt, and set
Fire to the flying gauze. Fear did beget
Trouble in that light heart! She cried amain.
Quoth one among her worshipers, "Why fret,
 
Tulip of Love? Th' extinguished fire hath burned
Only one leaf of thee; but I am turned
To ashes--leaf and stalk, and flower and root--
By lamp-flash of thine eyes!"--"Ah, Soul concerned
 
"Solely with self!"--she answered, laughing low,
"If thou wert Lover thou hadst not said so.
Who speaks of the Belov'd's woe is not his
Speaks infidelity, true Lovers know!"
translated by Edwin Arnold  

+ Bản dịch tiếng Việt:
               Diễn viên múa
                         Từ Bustan
 
Tôi đã nghe thế nào để gõ nhịp theo một số giai điệu nhanh,
Giữa  màu hồng và cô gái khiêu vũ như ánh trăng,
Chiếc miệng hoa và khuôn mặt Pâri; tất cả vây quanh cô.
Những chiếc cổ ngóng dài của đám người hâm mộ, tụ tập lại gần nhưng chẳng được lâu.
 
Một ngọn đèn nhấp nháy – ngọn lửa bén váy cô gái theo dựng cảnh.
Lửa bay làn khói nhẹ. Sự sợ hãi đã phát sinh.
Gây phiền phức nơi trung tâm ánh sáng! Nàng kêu gào khẩn thiết.
Một trong những số người hâm mộ nàng đã nói: “Tại sao phải băn khoăn?”
 
“Hoa Uất kim hương của tình yêu?” Ngọn lửa thiêu hủy của em làm bừng cháy,
Chỉ một chiếc lá, nhưng tôi quay lại
Tìm tro – lá và thân cây, hoa và rễ -
Bởi ngọn đèn nhấp nháy nơi đôi mắt em!” – “Ôi, một linh hồn đáng thương!”.
 
Nàng cười khẽ, đáp lời: “Chỉ biết có mình với bản thân!”
“Nếu anh là người yêu, anh sẽ không nói vậy!
Ai đề cập về nỗi đau đớn của người yêu thì không phải là người tình
Lời nói không chung thủy, những người yêu chân thành đều biết!”
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
      (Theo bản dịch tiếng Anh của  Edwin Arnold)

 
2)
Beauty, color, and perfume
                              by Saadi
 
I saw bouquets of fresh roses
Tied upon a cupola of grass.
I asked: "What is despicable grass
To sit also in the line of the roses?"
 
The grass wept and said: "Hush!
Companionship does not obliterate nobility.
Although I have no beauty, color, and perfume,
Am I not after all the grass of God's garden?"
              translated by Edward S. Holden
 
 
Vẻ đẹp, màu sắc và hương thơm
 
Tôi trông thấy bó hoa hồng tươi thắm.
Buộc trên một vòm cỏ.
Tôi hỏi: Cỏ hèn hạ, là thứ gì?
Mà cũng ngồi cùng hàng với hoa hồng?”
 
Cỏ khóc và nói: “Suỵt, im đi!”
Tình bạn không thể làm xóa mờ địa vị kẻ quý tộc.
Mặc dù tôi không đẹp, không có sắc màu rực rỡ và hương thơm.
Nhưng đâu phải tôi là cỏ để đứng sau cùng trong khu vườn Thượng đế?”
 
3)
The Pearl and the Ocean
                        by Saadi 
From the Bustan
A drop of rain trickled from a cloud into the ocean. When it beheld the breadth of its waters it was utterly confounded:
 "What a place is this Sea, and what am I? If it is existent, verily I am non-existent."
 Whilst it was thus regarding itself with the eye of contempt, an oyster received and cherished it in its bosom.
 Fortune preferred it to a place of honor; for it became a renowned royal Pearl.
 Because it was humble, it found exaltation: it knocked at the door of Nonentity that it might arise into Being.
                  translated by Samuel Robinson

+ Bản dịch tiếng Việt:
Ngọc trai và đại dương
 
Một giọt mưa nhỏ giọt từ một đám mây xuống đại dương. Khi nó trông thấy mặt nước mênh mông, nó hoàn toàn bối rối:
Biển là nơi gì? Và tôi là gì? Nếu biển tồn tại, tôi thực sự không tồn tại.”
Khi nó đã thấy được tự thân với con mắt xem thường mình như vậy, một con trai đã chứa đựng và ấp ủ nuôi nó trong lòng.
Định mệnh đã ưu đãi đưa nó đến một nơi danh dự, cho nó trở thành một viên ngọc nữ hoàng nổi tiếng.
Bởi vì nó đã khiêm tốn, tìm thấy sự trang trọng: nó gõ vào cánh cửa của Thực tại vô danh và nó có thể hồi sinh vào Hữu thể.
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
(Theo bản dịch tiếng Anh của Samuel Robinson)
 
4)  Bài thơ “Con cháu Adam”
+ Nguyên tác của Saadi:
بنى‌آدم اعضای یک پیکرند
که در آفرینش ز یک گوهرند
چو عضوى به درد آورَد روزگار
دگر عضوها را نمانَد قرار
تو کز محنت دیگران بی‌غمی
نشاید که نامت نهند آدمی
 
+ Bản dịch tiếng Anh:

Human beings are member of a whole,
In creation of one essence and soul.
 
If one member is afflicted with pain,
Other members uneasy will remain.
 
If you’ve no sympathy for human pain,
The name of human you cannot retain!”
 
+ Bản dịch tiếng Việt:
         Con cháu A-đam
 
Con người là thành viên của một toàn thể.
Vốn cùng nguồn tạo nên bản chất và tâm hồn.
 
Nếu một thành viên quằn quại khổ đau.
Những thành viên khác sẽ không còn thoải mái.
 
Nếu bạn thờ ơ trước nỗi đau đồng loại.
Bạn sẽ không giữ được tên gọi con người.
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
 
 Bài thơ “Con cháu Adam” được trích trong tác phẩm : “Vườn hồng”( Gulistan) của Saadi. Đây là bài thơ nổi tiếng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Bài thơ được thêu chỉ vàng trên thảm đỏ Ba Tư và được treo trang trọng tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York từ trước đến nay. Người ta đánh giá  Saadi là nhà thơ vĩ đại và bài thơ có những lời thật kỳ diệu (it are the wonderful words of that great Persian poet, Sa’adi)
 
 

 

0 Comments
<<Previous

    DANH MỤC TÁC GIẢ:

    All
    Abdul Basit Abu Bakr Mohamed (Libya)
    Adam Mickiewicz (Ba Lan)
    Alexander Pushkin
    Alexander Pushkin (Nga)
    Alvin Pang (Singapore)
    Amir Khusrow
    Amir Khusrow (Ấn Độ - Ba Tư)
    Angkarn Chanthathip (Thái Lan)
    Aufie Zophy (Nam Phi)
    Ba Tư)
    Bénédicte Houart (Bỉ)
    Bhasa
    Bjørnstjerne Martinus Bjørnson (Na Uy)
    Blaga Dimitrova
    Boris Pasternak
    Chandran Nair (Singapore)
    Charles Harpur
    Charles Harpur ( Úc)
    Dante Alighieri
    Des
    Desanka Maksimovic (Serbia)
    Des (Nam Phi)
    Diana Anphimiadi
    Diana Anphimiadi (Gruzia)
    Edna St. Vincent Millay - Mỹ
    Elfried Jelinek (Áo)
    Emily Dickinson (American)
    Eugenio Montale
    Faiz Ahmad Faiz
    Farzaneh Khojandi (Tajikistan)
    Federico Garcia Lorca
    Florbela Espanca (Bồ Đào Nha)
    Forugh Farrokhzard - (Iran)
    Friedrich Holderlin (Đức)
    Gabriela Mistral (Chi Lê)
    Gaius Valerius Catullus
    Giorgos Seferis
    Hafez (Hafiz) - Ba Tư
    Han Yong'un
    Heinrich Heine
    Hermann Hesse (Đức)
    Jaroslav Seifert - Tiệp Khắc (Czechoslovakia.)
    Johanes Vihelm Jensen- Đan Mạch (Denmark)
    Johan Ludvig Runeberg
    Johann Wolfgang Von Goethe
    José Garcia Villa Philippines
    Jose Rizal - Philippiné
    Jovan Ducic (Serbia)
    Kajal Ahmad (Iraq)
    Karen Blixen (Đan Mạch)
    Khuyết Danh
    Kim So-wol
    Konstantin Simonov (Liên Xô)
    Kotaro Takamura
    Leong Liew Geok (Singapore)
    L. Olziitogs
    Mahmoud Darwich (Palestine)
    Maurice Maeterlinck
    Mikhail Juriievitsh Lermontov
    Milton Acorn
    Milton Acorn (Canada)
    Nadia Anjunman (Persian
    Najama Saeed
    Nazim Hikmet
    Nelly Sachs (Do Thái)
    Nelly Sachs (Do Thái)
    Noshi Gillani (Pakistan)
    Octavio Paz - Mễ Tây Cơ
    Omar Khayyám
    Pablo Neruda
    Pär Fabian Lagerkvist (Thụy Điển)
    Partaw Naderi (Afganistan)
    Percy Bysshe Shelley
    Petofi Sandor (Hungary)
    Rabindranath Tagore
    Robert Cameron Rogers - Mỹ
    Rumi (Ba Tư)
    Saadi (Ba Tư Trung Cổ)
    Salah Abdel Sabour
    Salvatore Quasimodo (Ý)
    Sappho
    Sarojini Naidu
    Sergei Aleksandrovich Yesenin - Nga
    Shadz Shadz
    Subhi Niall
    Sylvia Plath - Mỹ
    Thơ Federico García Lorca
    Thơ Khuyết Danh Của Arabic
    Thomas Moore
    Tình Ca Ai Cập
    Tomas Transtromer
    Trumbull Stickney (Thụy Sĩ)
    Tsangyang Gyatso
    Tsangyang Gyatso (Tây Tạng)
    Walt Whitman - Mỹ
    William Butler Yeats (Ái Nhĩ Lan)
    Wislawa Szymborka (Ba Lan)
    Zaw Gyi - Myanmar (Miến Điện)

Powered by Create your own unique website with customizable templates.