(661 – 702)
Trần Tử Ngang tên chữ là Bá Ngọc, người Xạ Hồng, Tân Châu nay là Tứ Xuyên. Sống vào thời Sơ Đường (618-713). Năm 684, đời Võ Tắc Thiên, ông thi đỗ tiến sĩ lúc 24 tuổi, được ban chức “Lân Đài Chính Tự” làm công việc văn thư trong cung đình. Sau đó được bổ nhiệm chức “tả thập di“, và chức “hữu bổ khuyết” chuyên về việc khuyên can các điều lầm lỗi của vua..Sau vì dâng sớ can ngăn việc chính sự nên bị dèm pha và bị Võ Tắc Thiên ghét bỏ. Ông từ quan về làng, bị quan địa phương bức hại . Ông phẫn uất chết trong ngục năm 41 tuổi.
Bài “Đăng U châu đài ca” là bài thơ nổi tiếng nhất của ông
登幽州臺歌
前不見古人,
後不見來者;
念天地之悠悠,
獨愴然而涕下
陳子昂
*Dịch âm:
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc sảng nhiên nhi thế hạ
*Dịch nghĩa:
Bài ca lên đài U châu
Nhìn về phía trước không thấy người xưa
Nhìn về phía sau không thấy người mới lại
Nghĩ về đất trời mênh mông vời vợi
Một mình cảm thương bỗng rơi nước mắt.
*HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
*Dịch thơ:
- Bản dịch 1:
Bài ca lên đài U Châu
Trước nhìn không thấy người xưa
Ngoảnh sau người mới cũng chưa thấy người
Mênh mang ngẫm chuyện đất trời
Xót lòng thương cảm lệ rơi riêng mình
*HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
*Bản dịch 2:
Bài ca lên đài U Châu
Trước, không thấy người xưa
Sau, không người mới tới
Ngẫm đất trời mênh mông vời vợi
Lệ bỗng rơi thương cảm mình ta
· HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
*Chú thích:
-Bài thơ Trần Tử Ngang viết theo thể thơ cổ phong(5.5,6.6) vẫn được xem như một bài tứ tuyệt của Đường thi.
- U Châu đài: Là đài U châu doYên Chiêu vương (?-279 trước CN) xây dựng ở đất Yên thời Chiến quốc nên còn gọi là Yên đài.
*Một số bản dịch khác:
1) Bản dịch của Trần Trọng San --
Bài ca lên đài U Châu
Ngoảnh lại trước: người xưa vắng vẻ
Trông về sau: quạnh quẽ người sau
Ngẫm hay trời đất dài lâu
Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan
2)Bản dịch của Tương Như :
Bài ca lên đài U Châu
Người trước chẳng thấy ai,
Người sau thì chưa thấy.
Gẫm trời đất thật vô cùng,
Riêng lòng đau mà lệ chảy.
**