TRANG THƠ HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG
  • TRANG CHỦ
  • THƠ SÁNG TÁC
    • THƠ MỚI >
      • Thơ sáng tác phần 1
      • Thơ sáng tác phần 2
      • Thơ sáng tác phần 3
      • Thơ sáng tác phần 4
      • Thơ sáng tác phần 5
    • THƠ ĐƯỜNG
  • THƠ DỊCH
    • Thơ dịch chữ Hán
    • Thơ Anh
    • Thơ Pháp
    • Thơ dịch các nước khác
  • Trang ghi chép
  • LIÊN HỆ

CẢM HOÀI- ĐẶNG DUNG

12/4/2013

0 Comments

 

                     ĐẶNG    DUNG ( 鄧 容 )
                   (  ?    -  1413       ) – Việt Nam
         Người huyện Thiên Lộc, Nghệ An, Việt Nam (nay là huyện Can Lộc,tỉnh Hà Tĩnh). Sau khi cha ông là Đặng Tất bị  Giản định đế (vua thời Hậu Trần) giết , ông đón Trần Quí Khoách lập lên làm vua để đánh nhau với quân Minh. Sau ông bị thua trận và bị bắt . Trên chiếc thuyền bị áp giải về Yên Kinh, ông đã nhảy xuông biển tuẫn tiết.
     Sau đây xin giới thiệu bài thơ  Thuật hoài (述懷) hay còn gọi là Cảm hoài ( 感懷) một bài thơ rất nổi tiếng của ông .


            感  懷
                Cảm hoài

    世 事 悠 悠 奈 老 何
     Thế  sự    du  du [1] nại lão hà?
    無 窮 天 地 入 酣 歌
     Vô  cùng thiên địa nhập hàm ca.
    時 來 屠 釣 成 功 易
     Thời  lai  đồ điếu[2] thành công dị,
    運 去 英 雄 飲 恨 多
     Vận khứ anh hùng ẩm  hận đa.
    致 主 有 懷 扶 地 軸
     Trí   chủ  hữu  hoài phù địa trục,
    洗 兵 無 路 挽 天 河
     Tẩy binh[3] vô lộ vãn thiên hà.
    國 讎 未 報 頭 先 白
     Quốc thù  vị   báo  đầu tiên bạch,
    幾 度 龍 泉 戴 月 磨
     Kỷ độ Long Tuyền[4] đái nguyệt ma.


 + Chú thích:          
   - Có bản chép khác: Thế lộ 世 路 (câu 1), Nhập thù ca 入酬 歌(câu 2), Sự khứ 事去(câu 4), Trí chúa hữu tâm 致 主 有 心(câu 5), vị phục 未 復(câu 7).
      Bài thơ trên là bản được in trong SGK Ngữ văn 10 Nâng cao, Tập 1, NXB Giáo dục, 2007. Có đầu đề nguyên tác là Cảm hoài và dịch ra nghĩa Việt.là Nỗi lòng
- Một số từ khó:
1: Du du 悠 悠: Du 悠 : a) Lo lắng, lo nghĩ, ưu tư . b) Xa và dài như du du 悠 悠: Dài dằng dặc, xa xôi; lo nghĩ xa xôi. c) Dàu dàu, man mác như du du ngã tâm ưu 悠 悠 我 心 憂: Lòng ta buồn dàu dàu. d)Nhởn nhơ như bạch vân du du 白 雲 悠 悠: May trắng nhởn nhơ. đ)Thoang thoảng: Du nhiên thần vãng 悠 燃 神 往 : Cái tinh thần thoang thoảng.
2: Đồ điếu 屠 釣 : Đồ: mổ, giết. Người mổ giết súc vật để làm hàng thịt. Điếu: câu cá. Đồ điếu là có ý : chỉ người có địa vị thấp trong xã hội. Theo tích: Thuở hàn vi, Phàn Khoái là người làm nghề bán thịt chó, Hàn Tín là người câu cá nhưng cả hai sau này đều là bậc khai quốc công thần của Lưu Bang (Hán cao tổ), lập nên đại nghiệp cho nhà Hán, nổi danh vang lừng thiên hạ. Ở một tích khác, nhân vật Trương Phi (thời Tam quốc) ban đầu cũng làm nghề mổ lợn, sau kết nghĩa, giúp Lưu Bị làm nên nghiệp đế. Đồng thời nhân vật Khương Tử Nha (Lã Vọng ) cũng đi câu cá sau gúp  Chu Vũ Vương  lập nên đại nghiệp cho nhà Chu.
3: Tẩy binh vô lộ 洗 兵 無 路: Rửa vũ khí không còn lối.(Binh: Chỉ chung các loại vũ khí như gươm, giáo, áo giáp vv...). Lấy ý nghĩa trong bài “Tẩy binh mã洗兵馬”(Rửa khí giới) của Đỗ Phủ ở 2 câu cuối: “An đắc tráng sĩ vãn thiên hà,/Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng 安得壯士挽天河 / 淨洗甲兵長不用!”, (Được bình yên, tráng sĩ kéo sông Ngân xuống./ Rửa sạch vũ khí, giáp trận để nghỉ lâu dài không dùng đến).
4: Long Tuyền  龍 泉: Tên một thanh kiếm báu thời cổ.Tương truyền rất bén, chém sắt như chém bùn. Long Tuyền còn gọi là Long Uyên.
Theo sách Thông chí: Thời nhà Tấn (thời Tấn Huệ Đế) , quan thiếu phó là Trương Hoa xem thiên văn thấy giữa khoảng sao Ngưu, sao Đẩu thường có ánh sáng sắc tím. Trương Hoa mới hỏi Lôi Hoán- một vì quan giỏi về thiên văn thuật số, thì Hoán nói rằng đó là sắc của một thanh bảo kiếm tự dưới đất chiếu thẳng lên trời, hiện có ở tại Phong Thành. Theo ủy thác của Trương Hoa nhờ tìm gươm báu, Hoán đến nơi đào được ở dưới đất hai thanh kiếm đựng trong một cái hộp đá. Trên hai thanh kiếm có khắc chữ: Long Tuyền và Thái A, ánh sáng chói lọi rực rỡ. Đây là một cặp Âm dương kiếm: Long Tuyền là gươm trống và Thái A là gươm mái.
Như vậy Long Tuyền là một thanh kiếm báu cổ của Tàu có điểm thêm màu sắc huyền thoại để  kiếm có sự tích ly kỳ.  Đặng Dung mượn tích này để nói về gươm báu vì thực tế  ông không thể nào  có thanh kiếm Long Tuyền từ đời Tấn để mang. .

+Đôi lời về bài thơ:
      Bài thơ “Cảm hoài” được trích trong tuyển tập “Toàn Việt Thi Lục” của Lê Quí Đôn (1726 - 1784). Đây là bài thơ duy nhất của Đặng Dung còn sót lại và cũng là bài thơ hay hiếm có của Việt Nam, được nhiều thế hệ biết đến.
      Bài thơ ra đời có lẽ vào thời điểm ông đem quân giúp Trùng Quang Đế (từ 1409 – 1413) của nhà Hậu Trần, chống lại quân xâm lược nhà Minh. Ông có lòng trung liệt muốn xả thân khôi phục lại cơ nghiệp cho nhà Trần mặc dù cha ông là Đặng Tất đã bị Giản Định Đế (1407 – 1409) nghe lời gièm pha giết chết vào năm 1408. Tuy nhiên ông đã quên thù nhà chỉ nghĩ đến việc báo đền nợ nước. Ông đã thắng quân Minh vài trận nhưng vì do thế cô, quân ít, thiếu lương thực , lòng người lại phân tán, vận nước suy vi  nên cuộc kháng chiến của ông đã thất bại. Rốt cuộc ông và vua Trùng Quan thua trận, bị giặc Minh bắt vào cuối năm 1413. Trên đường bị áp giải về Yên Kinh ông và nhà vua đã nhảy xuống biển tự vẫn để giữ tròn khí tiết.
            Tuy sự nghiệp cứu nước không thành nhưng tấm lòng son của ông vẫn còn sống mãi với sử xanh. Bài thơ tự sự này cũng chính là tiếng lòng của ông mang đầy tính chất bi tráng của một bậc anh hùng. Bởi vậy, ông Lý Tử Tấn (1378 - ?)- một vì quan triều Lê đã nhận xét “Phi hào kiệt chi sĩ bất năng” (Nếu không phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể làm được bài thơ này).
Trong từ điển văn học, Phạm Tú Châu cũng đã bình phẩm: “Tuy là thơ của một người ôm hận vì bất lực trước thời thế, người đọc vẫn thấy toát lên ở đây tình cảm cao cả tràn khắp đất trời, đó là lòng yêu nước thiết tha của một tráng sĩ vì nước bôn ba, là niềm tin và quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc qua hình tượng rất đẹp, rất thơ: “Mấy phen mang gươm Long Tuyền mài dưới trăng...”.
           Chính vì những ưu điểm đó, bài thơ này đã được  tuyển vào chương trình văn học sách giáo khoa lớp 10 của Việt Nam từ lâu và hiện đang được giảng dạy cho học sinh.

   + Dịch nghĩa:

                            CẢM HOÀI

Việc đời còn lắm nỗi lo nghĩ xa xôi, sao tuổi già( của ta) đã tới?
Trời đất mênh mông, ta vùi mình trong cuộc rượu hát say.
Khi gặp thời, kẻ hàng thịt – câu cá cũng dễ thành công.
Lúc lỡ vận, bậc anh hùng cũng phải đành cam nuốt nhiều tủi hận.
Lòng những muốn hết sức, phò vua xoay trục đất.
Nhưng không còn lối để kéo sông Ngân xuống rửa vũ khí giáp trận (mong nghỉ việc binh đao).
Thù nước chưa báo đáp xong mà đầu đã sớm bạc.
Biết bao lần ta đã đội trăng mài kiếm báu Long Tuyền!
                                      HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch

+ Dịch thơ:
                       CẢM HOÀI

Thế sự ưu tư, tuổi luống rồi.
Mênh mông trời đất hát say chơi.
Gặp thời,  kẻ mọn danh nên dễ.
Lỡ vận, anh hùng  hận chẳng nguôi.
Những muốn phò vua xoay trục đất.
Khó mong gột giáp kéo sông trời.
Bạc đầu chưa trả xong thù nước.
Mài kiếm trăng về mấy độ soi.
                    HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch

 + Giới thiệu một số bản dịch khác:

   -Bản dịch của cụ Phan Kế Bính:
    

    Việc đời bối rối tuổi già vay,
    Trời đất vô cùng một cuộc say.
    Bần tiện gặp thời, lên cũng dễ,
    Anh hùng lỡ bước, ngẫm càng cay.
    Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
    Giáp gột sông trời khó vạch mây.
    Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
    Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.
                                     Phan Kế Bính dịch.
                                  
   -  Bản dịch của cụ Tản Đà:

    Việc đời man mác, tuổi già thôi!
    Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi.
    Gặp gỡ thời cơ may những kẻ,
    Tan tành sự thế luống cay ai!
    Phò vua bụng những mong xoay đất,
    Gột giáp sông kia khó vạch trời.
    Đầu bạc giang san thù chửa trả,
    Long tuyền mấy độ bóng trăng soi.
                             ***




0 Comments

    DANH MỤC TÁC GIẢ:

    All
    BẠCH CƯ DỊ
    Bạch Cư Dị (tt)
    Ban Tiệp Dư
    ĐẶNG DUNG
    Đào Tấn - Việt Nam
    ĐỖ MỤC
    ĐỖ PHỦ
    ĐỖ THU NƯƠNG
    DƯƠNG KHÔNG LỘ
    Hương Hải Thiền Sư
    HUYỀN QUANG
    KHUYẾT DANH
    KHUYẾT DANH
    KIỀU TRI CHI
    Lâm Bô
    Liễu Vĩnh
    LƯ ĐỒNG
    LƯ ĐỒNG ( LÔ ĐỒNG )
    LƯƠNG Ý NƯƠNG
    LÝ BẠCH
    LÝ BẠCH (t.t)
    LÝ CHI NGHI
    Lý Diên Niên
    LÝ THANH CHIẾU
    LÝ THƯƠNG ẨN
    MÂN GIÁC
    MẠNH GIAO
    Mạnh Giao (tt)
    MẠNH HẠO NHIÊN
    NGUYỄN DU
    QUỲNH DAO
    TÀO TUYẾT CẦN
    THÔI HIỆU
    THÔI HỘ
    TÔ HUỆ
    Tô Thức (Tô Đông Pha)
    Trác Văn Quân
    TRẦN TỬ NGANG
    Trung Quốc (tt)
    TRƯƠNG KẾ
    Trương Nhược Hư
    TRƯƠNG TỊCH
    Trương Tịch (tt)
    TỪ AN TRINH
    VƯƠNG DUY
    Vương Xương Linh

Powered by Create your own unique website with customizable templates.