TRANG THƠ HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG
  • TRANG CHỦ
  • THƠ SÁNG TÁC
    • THƠ MỚI >
      • Thơ sáng tác phần 1
      • Thơ sáng tác phần 2
      • Thơ sáng tác phần 3
      • Thơ sáng tác phần 4
      • Thơ sáng tác phần 5
    • THƠ ĐƯỜNG
  • THƠ DỊCH
    • Thơ dịch chữ Hán
    • Thơ Anh
    • Thơ Pháp
    • Thơ dịch các nước khác
  • Trang ghi chép
  • LIÊN HỆ

Thơ Tô Huệ (Tô Nhược Lan)

4/13/2014

0 Comments

 

                            TÔ HUỆ (蘇惠 )
                             ( 357  -    ?   )

      Tô Huệ  tự là Nhược Lan, người  đất Thần Châu. Sinh vào khoảng năm 357 vào cuối đời Tây Tấn, đầu đời Tiền Tần dưới triều đại vua Phù Kiên. Chưa biết rõ ngày, tháng,  năm mất. Bà là con thứ 3 của ông Tô Đạo Chất, nổi tiếng xinh đẹp, có tài văn chương xuất chúng. Theo truyền thuyết bà có đến 7900 bài thơ.
       Bài thơ “ Chức cẩm hồi văn” là bài thơ hay nổi tiếng của bà. Người đời sau đã tôn xưng bà  là thi tổ của loại hồi văn thi và cho là bậc kỳ tài vì đã sáng tạo được lối thơ này.

  
       織 錦 回 文          (1)
       Chức cẩm hồi văn                              

君 承 皇 詔 安 邊 戍,
Quân thừa hoàng chiếu an biên thú,        
送 君 送 別 河 橋 路。
Tống quân tống biệt hà kiều lộ. 
 含 悲 掩 淚 贈 君 言,
 Hàm bi yểm lệ tặng quân ngôn, 
莫 忘 恩 情 便 長 去。 
Mạc vong ân tình tiện trường khứ. 

何 期 一 去 音 信 斷,
Hà kỳ nhất khứ âm tín đoạn, 
遣 妾 屏 幃 春 不 暖。
Khiển thiếp bình vi xuân bất noãn. 
琼  瑤 階 下 碧 苔 生,
Quỳnh dao giai hạ bích đài sinh, 
珊 瑚 帳 裏 紅 塵 滿。
San hô trướng lý hồng trần mãn. 

此 時 到 別 每 驚 魂,
Thử thời đạo biệt mỗi kinh hồn, 
 將 心 何 托 更 逢 君。
Tương tâm hà thác cánh phùng quân.  
一  心 願 作 滄 海 月,
 Nhất tâm nguyện tác thương hải nguyệt, 
一  心 願 作 嶺 頭 雲。
Nhất tâm nguyện tác lĩnh đầu vân. 

嶺  雲 歲 歲 逢 夫 面,
Lĩnh vân tuế tuế phùng phu diện,  
海  月 年 年 照 得 邊。
Hải nguyệt niên niên chiếu đắc biên. 
飛 來 飛 去 到 君 旁,
Phi lai phi khứ đáo quân bàng, 
千 里 萬 里 遙 相 見。 
Thiên lý vạn lý dao tương kiến

迢 迢 路 遠 關 山 隔,
Thiều thiều lộ viễn quan sơn cách, 
恨 君 塞 外 長 為 客。
Hận quân tái ngoại trường vi khách. 
去 時 送 別 蘆 葉 黃,
 Khứ thời tống biệt lư  điệp huỳnh, 
難 悟 已 經 梅 花 白。
Nan ngộ kỷ kinh mai hoa bạch. 

百 花 散 亂 逢 春 早,
Bách hoa tán loạn phùng xuân tảo,  
春 意 催 人 向 誰 道。
Xuân ý thôi nhân hướng thùy đạo. 
垂 楊 滿 地 為 君 攀, 
Thuỳ dương mãn địa vị quân phan, 
落 花 滿 地 無 人 掃。
Lạc hoa mãn địa vô nhân tảo. 

庭 前 春 草 正  芬 芳,
Đình tiền xuân thảo chính phân phương,  
呆 得 秦 箏 向 蓋 堂。
Bảo đắc Tần tranh hướng họa đường. 
 為 君 彈 得 江 南 曲,      (2)
Vị quân đàn đắc Giang Nam khúc, 
附 寄 情 深 到 朔 方。 
Phụ ký tình thâm đáo sóc phương. 

朔 方 迢 迢 山 難 越,
Sóc phương thiều thiều sơn nan việt,  
萬 里 音 書  長 斷 絕。
Vạn lý âm thư trường đoạn tuyệt.  
銀 妝 枕 上 淚 沾 衣,
Ngân trang chẩm thượng lệ triêm y, 
金 縷 羅 裳 縫 皆 裂。 
Kim   lũ   la thường phùng giai liệt. 

三 春 鴻 雁 渡 江 聲,              (3)
Tam xuân hồng nhạn độ giang thinh,  
此 時 离 人 斷 腸 情。
Thử thì ly nhân đoạn trường tình. 
箏 弦 未 斷 腸 先 斷,
Tranh huyền vị đoạn trường tiên đoạn,
怨 結 先 成 曲 未 成。 
Oán  kết  tiên thành khúc vị thành. 

君 今 憶 妾 重 如 山,
Quân kim ức thiếp trọng như sơn, 
妾 亦 思 君 不 暫 閒。 
Thiếp diệc tư quân bất tạm nhàn. 
織 將 一 板 獻 天 子,
Chức tương nhất bản hiến Thiên Tử,  
願 訪 而 夫 及 早 還。
Nguyện phóng nhi phu cập tảo hoàn

  • Dịch nghĩa:
 Bài thơ hồi văn dệt trên bức gấm

Chàng tuân chiếu vua ra ngoài biên thú.
Thiếp đưa tiễn chàng nơi chiếc cầu qua sông.
Thiếp ngậm sầu, nén nước mắt nhủ lời.
Đừng quên ân tình này dù cách xa đằng đẵng.

Sao một lần ra đi lại bặt tin biền biệt?
Khiến phòng the của thiếp xuân về chẳng ấm.
Dưới thềm ngọc, rêu mọc phủ xanh.
San hô màn trướng bụi hồng phủ đầy..

Ngẫm chuyện chia ly lòng đầy kinh sợ.
Những luôn lo nghĩ làm sao gặp lại chàng.

Thiếp nguyện một lòng làm trăng trên biển xanh.
Nguyện một lòng làm mây trên đầu núi.


Mây đầu núi hàng năm giáp mặt chàng.
Trăng biển xanh hàng năm rọi chiếu gặp được người ngoài biên ải
Bay đi, bay lại gần cạnh chàng.
Ngàn dặm, vạn dặm xa cũng được thấy nhau.

Dẫu đường xa xôi quan san cách trở.
Hận chàng làm khách biên phòng quá lâu.
Thuở tiễn chàng lá lau vàng úa.
Ai hay đã trải qua mấy mùa hoa mai trằng nở.

Trăm hoa nhộn nhịp chào sớm xuân.
Ý xuân thúc giục lòng người cùng với ai.
Thùy liễu rợp đất cũng vì chàng mà vin nhánh.
Hoa rụng đầy đất không người quét.

Cỏ xuân trước sân thoảng mùi hương chờ đợi.
Lòng ngơ ngẩn ôm đàn tranh ra họa đường.
Vì chàng gảy trọn khúc Giang Nam.
Gửi tình sâu nặng này về phương bắc.

Phương bắc xa xôi núi non hiểm trở.
Vạn dặm tin thư đứt hẳn.
Trên gối bạc, lệ chảy đầm đìa ướt áo.
Đường khâu áo lụa tơ vàng đều muốn mục rách.

Đã ba xuân nghe tiếng chim hồng nhạn bay qua sông.
Cũng chính lúc ấy người xa nhau đứt ruột vì tình.
Dây đàn tranh chưa đứt mà lòng đã đứt trước.
Nỗi oán đã kết thành mà khúc nhạc chưa thành.

Chàng nay nhớ thiếp nặng như núi.
Cũng giống thiếp nhớ chàng không lúc nào nguôi.
Dệt bức gấm này dâng lên thiên tử.
Mong cho chồng sớm được trở về.
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
 
  • Dịch thơ:
                BÀI THƠ HỒI VĂN DỆT TRÊN BỨC GẤM    (1)

                  Chàng tuân chiếu đến biên cương.
          Thiếp theo tiễn biệt qua đường cầu sông.
                   Ngậm buồn, nén lệ, gửi lòng.
          Ân tình xin nhớ dẫu cùng cách xa.

                   Một đi tin chẳng lại nhà.
          Lạnh lùng chiếc bóng phòng hoa xuân về
                   Dưới thềm rêu mọc lê thê.
          San hô màn trướng ủ ê bụi hồng.

                   Ngẫm ngày ly biệt hãi hùng.
          Những lo năm tháng trùng phùng mỏng manh.
                   Muốn làm trăng chốn biển xanh.
          Muốn làm mây phủ xây thành đầu non.

                   Từng năm mây giáp người thương.
          Từng năm trăng gặp dặm trường ải quan.
                   Bay đi bay lại gần chàng.
            Dẫu là vạn lý đôi đàng thấy nhau.

                  Quan san cách trở dài lâu.
           Hận chàng mãi khách biên đầu dở dang.
                  Ngày đi lau mới úa vàng.
           Mà nay mấy độ mai ngàn trắng bông.
          
                   Trăm hoa nhộn nhịp chào xuân.
          Ý xuân riêng để giục lòng cùng ai.
                   Vì chàng cành liễu vin hoài.
          Hoa rơi đầy đất không người quét hoa.

                   Cỏ xuân thơm trước sân nhà.
          Ôm đàn  ngơ ngẩn bước ra họa đường.
                  Giang Nam khúc trọn nhớ thương.       (2)
          Gửi tình sâu đến bắc phương cùng người.

                   Bắc phương non nước xa xôi.
          Tin thư vạn dặm lâu rồi bặt tăm.
                   Lệ buồn ướt đẫm gối loan.
          Đường thêu xiêm áo tơ vàng rữa không.

                   Ba xuân tiếng nhạn qua sông.               (3)
          Người xa đứt ruột tơ lòng đã chia.
                   Đàn chưa đứt, ruột đã lìa.
          Oán thành mà khúc nhạc kia chưa tròn.

                   Tình chàng nhớ thiếp như non.
          Cũng như lòng thiếp mỏi mòn nhớ nhung.
                   Gấm thơ dâng đến Cửu trùng
          Sớm mong lượng cả cho chồng hồi hương.

                                         HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
                                                   (Ngày 10. 04. 2014)

Picture

+ Ghi chú:
1-Chức cẩm hồi văn (織錦回文): Chức : dệt / cẩm : gấm / hồi : trở lại, quanh co / văn :văn từ./ Hồi văn ở đây có nghĩa là  thơ hồi văn (hồi văn thi) có cách đọc quanh co, xuôi ngược  trên dưới đều thành câu, tiếng Anh gọi là Palindrome. Hay nói khác hơn, hồi văn thi là nghệ thuật làm thơ theo lối luân chuyển hồi hoàn theo cách sắp xếp vị trí của các chữ. Bài thơ này còn có thể đọc ngược vị trí chữ của câu cùng dòng, hoặcđọc ngược từ câu cuối của bài từ dưới lên trên hoặc đọc bằng nhiều kiểu khác nhau nữa, ta sẽ có được nhiều bài thơ khác.Như vậy Chức cẩm hồi văn có nghĩa là bài thơ hồi văn dệt trên bức gấm. Bài thơ còn có nhiều tên khác nhau như :
. Tuyền cơ đồ (璇璣 圖,viết giản lược là 璇 玑圖,còn đọc là tuyền ki đồ) : Tuyền cơ 璇 璣 hay tuyền ki là bức đồ để xem thiên văn.Tô Huệ đặt tên  như vậy là vì số chữ dệt trên bức khăn đó, trông giống như những ngôi sao được xếp thành hàng mường tượng như những ngôi sao tạo thành  chòm sao Bắc Đẩu trên trời.
.Tuyền loa đồ (璇螺圖)  :Bức đồ xoay theo hình trôn ốc.
.Hồi văn cách (回文格):. Cách 格: Cảm cách. Lấy lòng thành làm cho người cảm phục. Hồi văn cách là bài thơ hồi văn có tác dụng làm cho cảm phục được lòng người
.Tô Huệ chức cẩm hồi văn (蘇惠織錦回文): Bài thơ hồi văn dệt trên gấm của Tô Huệ.
2- Giang nam khúc (江 南 曲) : là khúc nhạc đất Giang Nam, một vùng đất ở phía nam sông Trường Giang. Loại nhạc này, bắt nguồn từ dân ca nước Lương vào thời Nam Bắc triều, người ta thường phổ thơ các thi nhân vào khúc nhạc này để diễn tấu.
3- Chim hồng nhạn : 鴻 雁: Là một loại  thủy cầm thuộc chi ngỗng (Anser). Tên khoa học là Anserinae.Trong chi ngỗng này có nhiều loại khác nhau về màu lông. Riêng hồng nhạn (Anser anser) là loại chim ngỗng hoang dại, có lông màu nâu, bụng hơi trắng, mỏ bẹc và chân ngắn hơi đỏ. Loại chim này được phân bố ở Bắc bán cầu. Khi mùa đông tới, chúng di trú về phương Nam để kiếm ăn, thường bay thành từng bầy đàn.
      
       Từ lâu chim hồng nhạn đã đi vào văn thơ do điển tích sau: Nguyên Tô Vũ làm Trung lang  tướng  đời Hán Vũ đế (140 -86 Tr’ CN),  ông đi sứ sang Hung Nô, bị chúa Hung Nô là Thiền Vu bắt phải đầu hàng.Ông không chịu khuất phục nên bị bắt đi đày chăn dê ở Bắc Hải, một vùng biên tái xa xôi không có bóng người . Ông bị đày đến 19 năm. Vua Hán tưởng ông đã chết. Một ngày nọ, Tô Vũ buộc một mảnh lụa thư vào chân con chim nhạn. Chim bay về Nam, người ta bắt được thư dâng vua. Lúc này đã sang thời Hán Chiêu đế (86 -73 Tr’ CN), hai nước đã giảng hòa, vua biết ông còn sống nên đề nghị với bên Hung Nô thả ông về Hán. Từ đó “tin nhạn” có nghĩa là tin thư. Có tư liệu khác cho rằng việc lá thư viết trên lụa bắt được ở chim nhạn là do mưu kế của vua nhà Hán nói như vậy để có bằng cớ buộc Hung Nô phải thả ông ra.    
     Trong bài này, Tô Huệ có đưa tiếng chim hồng nhạn vào là có dụng ý muốn diễn đạt về tâm trạng mong ngóng tin tức của mình, cầu may được tin chồng như trường hợp của Tô Vũ..

Picture

                                                         Ảnh minh họa

                 Câu chuyện về “ Chức cẩm hồi văn”
          Theo truyền thuyết, Tô Huệ  là con thứ ba của ông Tô Đạo Chất. Bà nổi danh về nhan sắc xinh đẹp, văn chương xuất chúng, lại có tài về nữ công thêu dệt. Chồng bà là Đậu Thao một viên quan thời Tiền Tần làm đến chức thứ sử Tần Châu.Sau bị kẻ gian thần lập mưu hãm hại, ông bị vua giáng chức và đày đến Lưu Sa (nay là vùng sa mạc Bạch Long Thán ở Tân Cương). Đường đi đến nơi đây núi sông hiểm trở cho nên tin tức vắng bặt.. Sau 3 năm mỏi mòn chờ đợi, người vợ trẻ đã đan kết nỗi đau vào 10 bài thơ tứ tuyệt, dùng chỉ ngũ sắc thêu trên một bức gấm vuông để dâng lên nhà vua với lòng ước mong được vua cho chồng trở về sum hợp. Bài thơ không viết theo lối thông thường từ trên xuống dưới mà theo một hình đồ lạ lẫm, được bố trí thành 32 ô vuông, đặt tréo. Trong 32 ô vuông có 33 chữ lớn, còn các chữ nhỏ thì thêu ở cạnh các ô vuông, tổng cộng có 280 chữ theo hình dạng như sau:

Picture

                                     (Trích nguồn Wikipedia)
            Với cách xếp chữ lạ lùng này, cả vua và triều thần đều không có ai đọc được. Cuối cùng nhà vua phải cho mời Tô Huệ vào triều. Nàng đã đọc bức gầm với lời lẽ bi thiết, nước mắt đầm đìa. Vua nghe qua cảm động, hiểu thấu nỗi lòng chinh phụ, cảm phục tài thơ, và cả tài nữ công tuyệt xảo... nên đã hạ chiếu cho Đậu Thao được sớm trở về. Nhờ đó vợ chồng được đoàn tụ.
            Cũng cần nói thêm về bức hình đồ đã thêu của Tô Huệ bởi vì nó có chứa đựng một nội dung đặc biệt. Với bức kỳ đồ này, Tô Huệ đã thể hiện một tài năng độc đáo. Chỉ với 32 ô và 280 chữ xếp của 40 chục câu thơ, mỗi câu 7 chữ, người ta có thể đọc theo lối hồi văn với 12 cách đọc . Từ nội dung bài thơ thêu chỉ bằng  một chiếc khăn tay, người ta có thể đọc thành 1600 bài thơ. Nếu còn ráp theo kiểu các thể thơ 6 chữ, 5 chữ, 4 chữ,.... thì sẽ có vô số bài thơ. Bởi bà là người đầu tiên nghĩ ra lối thơ này nên người đời sau đã tôn bà là thi tổ của hồi văn thi
      Về loại hồi văn thi này các thi nhân các đời sau áp dụng rất nhiều  như Vương Dung, Phan Mạnh Dung, Trương Tiến, Vương An Thạch, Tô Thức, Thang Hiến Tổ, Trương Phân, Trương Hoài, Khâu Quỳnh Sơn, Tạ Mặc Khanh.vv...
     Câu chuyện về Tô Huệ còn nhiều truyền thuyết khác nhau như việc Đậu Tao ra Lưu Sa mê một ca kỹ xinh đẹp là Triệu Dương Đài nên bỏ quên người vợ trẻ ở nhà hoặc bức Tuyền cơ đồ của bà chứa đựng đến 841 chữ chứ không phải 280 chữ như bức trên, thậm chí có người cho bài thơ trên là không phải của Tô Huệ.vv...Chúng tôi  không thể nào hiểu rõ về thực hư của nó bởi vì câu chuyện đã xảy ra gần 2.000 năm rồi.Trong phạm vi hạn hẹp này, chúng tôi chỉ chú ý về bài thơ hiện có, vã lại bài thơ này cũng đã được lưu hành hàng trăm năm ở nước ta.

        Phải nói bài thơ “Chức cẩm hồi văn” là một bài thơ đặc sắc, tình ý thống thiết thể hiện được nỗi lòng của người chinh phụ. Có lẽ nó đã để lại một phần ảnh hưởng cho các tác giả về sau cho nên chúng ta đã bắt gặp trong “Xuân tứ” của Lý Bạch, “Khuê oán” của Vương Xương Linh...hoặc gần đây như  “Chinh Phụ Ngâm khúc” của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điêm...đã có nhiều câu, nhiều chữ mang tình ý, cảnh tâm giống nó.
         Phải chăng con người muôn nơi muôn thuở đều có tâm trạng giống nhau và nghệ thuật thi tài đều có tiếng nói chung của nó?
                                                                        HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG 

Picture

       Bức tuyền cơ đồ 841 chữ (Bức gấm hồi văn được dệt tinh xảo của Tô Nhược Lan theo              một tư liệu khác)

*Giới thiệu các bản dịch khác :
Ở nước ta từ trước đến giờ có nhiều bản dịch nhưng trong phạm vi hạn hẹp của chúng tôi được biết có các bản dịch được lưu hành như sau:
1. Bản dịch của Hoàng Quang - danh nho thời nhà Lê. 
2. Bản dịch thơ của tiến sĩ Ngô Thế Vinh  đời Tự Đức (thế kỷ 19)
3. Bản dịch của Hà Thượng Nhân năm 1985
            Tất cả các bản dịch này đều có ở nguồn Wikipedia, các bạn đọc có thể tham khảo thêm.




0 Comments

    DANH MỤC TÁC GIẢ:

    All
    BẠCH CƯ DỊ
    Bạch Cư Dị (tt)
    Ban Tiệp Dư
    ĐẶNG DUNG
    Đào Tấn - Việt Nam
    ĐỖ MỤC
    ĐỖ PHỦ
    ĐỖ THU NƯƠNG
    DƯƠNG KHÔNG LỘ
    Hương Hải Thiền Sư
    HUYỀN QUANG
    KHUYẾT DANH
    KHUYẾT DANH
    KIỀU TRI CHI
    Lâm Bô
    Liễu Vĩnh
    LƯ ĐỒNG
    LƯ ĐỒNG ( LÔ ĐỒNG )
    LƯƠNG Ý NƯƠNG
    LÝ BẠCH
    LÝ BẠCH (t.t)
    LÝ CHI NGHI
    Lý Diên Niên
    LÝ THANH CHIẾU
    LÝ THƯƠNG ẨN
    MÂN GIÁC
    MẠNH GIAO
    Mạnh Giao (tt)
    MẠNH HẠO NHIÊN
    NGUYỄN DU
    QUỲNH DAO
    TÀO TUYẾT CẦN
    THÔI HIỆU
    THÔI HỘ
    TÔ HUỆ
    Tô Thức (Tô Đông Pha)
    Trác Văn Quân
    TRẦN TỬ NGANG
    Trung Quốc (tt)
    TRƯƠNG KẾ
    Trương Nhược Hư
    TRƯƠNG TỊCH
    Trương Tịch (tt)
    TỪ AN TRINH
    VƯƠNG DUY
    Vương Xương Linh

Powered by Create your own unique website with customizable templates.