TỪ AN TRINH (徐安貞)
( ? )
Từ An Trinh 徐安貞 tên Sở Bích 楚璧, người Long Khâu 龍丘. Chưa rõ năm sinh, năm mất. Chỉ biết ông sống vào khoảng thời Trung Đường (766 – 835).
聞 鄰 家 理 箏
Văn lân gia lý tranh
徐安貞(Từ An Trinh)
北 斗 橫 天 夜 欲 闌,
Bắc đẩu hoành thiên dạ dục lan
愁 人 倚 月 思 無 端。
Sầu nhân ỷ nguyệt tứ vô đoan.
忽 聞 畫 閣 秦 箏 逸,
Hốt văn họa các Tần tranh dật,
知 是 鄰 家 趙 女 彈。
Tri thị lân gia Triệu nữ đàn.
曲 成 虛 憶 青 蛾 斂,
Khúc thành hư ức thanh nga liễm,
調 急 遙 憐 玉 指 寒。
Điệu cấp dao lân ngọc chỉ hàn.
銀 鎖 重 關 聽 未 闢,
Ngân tỏa trùng quan,thinh vị tịch,
不 如 眠 去 夢 中 看。
Bất như miên khứ mộng trung khan.
*Dịch nghĩa:
Nghe nhà bên gảy đàn tranh
Sao Bắc Đẩu ngang trời, đêm đã sắp tàn
Người buồn dựa ánh trăng , tưởng nhớ vu vơ.
Chợt nghe tiếng Tần tranh phát ra từ nơi lầu vẽ. (1)
Biết ngay là của Triệu nữ nhà bên đang gảy đàn (2)
Khúc đàn trọn, thoáng tưởng đôi mày xanh của nàng đang chau lại
Điệu đàn gấp rộn ràng, xa thương ngón tay ngọc của nàng bị tê buốt.
Chiếc khóa bạc ở then cửa chưa nghe tiếng mở (để trông thấy người).
Thôi chi bằng đi ngủ để mong được gặp nàng trong mộng.
HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
*Dịch thơ:
+Bản 1:
Nghe nhà bên gảy đàn tranh
Đêm khuya sao Đẩu ngang trời.
Người buồn vô cớ bồi hồi dựa trăng.
Lầu tranh bỗng trổi đàn Tần. (1)
Biết cô gái Triệu ở gần buông dây. (2)
Khúc xong tưởng nét chau mày.
Xa thương điệu gấp buốt tay rộn ràng.
Khóa ngoài chưa mở trông sang.
Chi bằng đi ngủ gặp nàng trong mơ.
HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
+ Bản 2:
Nghe nhà bên gảy đàn tranh
Sao Đẩu long lanh, đêm sắp tàn.
Người sầu dựa nguyệt, tưởng miên man.
Bỗng nghe lầu vẽ,Tần tranh dạo. (1)
Vốn biết nhà bên, Triệu nữ đàn. (2)
Khúc trọn,tưởng nàng chau nét liễu.
Điệu mau,thương ngón buốt cung thang.
Cửa ngoài, khóa bạc, trông chưa mở.
Thà ngủ tìm trong mộng gặp nàng!
*HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
(1) Tần tranh: Tên của một loại đàn tranh có ở đất Tần ngày xưa .Loại đàn này có 13 dây.
(2) Triệu nữ: Căn cứ vào câu thơ cổ “Yên Triệu đa giai nhân” (Nước Yên, nước Triệu có nhiều gái đẹp) nên từ “Triệu nữ” này vừa có nghĩa chỉ cô gái nước Triệu, hoặc cô gái nhà họ Triệu và cũng vừa có nghĩa ẩn ý chỉ cô gái đẹp.
Đây là bài thơ Đường được cụ Trương Vĩnh Ký dịch đầu tiên. Nó cũng đến với công chúng đầu tiên khi phong trào Hán học xuất hiện trở lại sau thời gian bị phong trào Pháp ngữ giành ưu thế lấn áp.
1) Bản dịch của Ngô Tất Tố:
Ngang trời, sao đẩu giục đêm thâu,
Dưới nguyệt, người đương vẩn mối sầu.
Lưng gác, bỗng nghe đàn dạo phím,
Đường tơ, nhận rõ ả bên lầu.
Dường chau mày liễu khi bài trọn,
E giá tay tiên lúc điệu mau.
Lắng mãi khóa then còn chửa mở,
Ngủ đi trong mộng thử tìm nhau.
2) Bản dịch của Nguyễn Văn Xung:
Nghe nhà bên đánh đàn tranh
Đêm tàn, sao đẩu quay sang.
Người ngồi dựa nguyệt, ngổn ngang mối tình.
Bỗng nghe vẳng tiếng Tần tranh.
Ấy người Thục nữ tỏ tình gần đây
Khúc xong tưởng nhíu đôi mày
Xa thương điệu gấp, ngón tay lạnh lùng.
Tiếng đâu gõ động loan phòng
Chi bằng tìm giấc mơ mòng thấy nhau.
***