TRANG THƠ HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG
  • TRANG CHỦ
  • THƠ SÁNG TÁC
    • THƠ MỚI >
      • Thơ sáng tác phần 1
      • Thơ sáng tác phần 2
      • Thơ sáng tác phần 3
      • Thơ sáng tác phần 4
      • Thơ sáng tác phần 5
    • THƠ ĐƯỜNG
  • THƠ DỊCH
    • Thơ dịch chữ Hán
    • Thơ Anh
    • Thơ Pháp
    • Thơ dịch các nước khác
  • Trang ghi chép
  • LIÊN HỆ

THƠ ĐỖ PHỦ

2/16/2012

0 Comments

 
                                                    Đỗ Phủ (杜甫)
                                                     (712  -  770)


Picture
                                                  Hình vẽ Đỗ Phủ do người đời sau
                                                   tưởng tượng ra

Đỗ Phủ tự Tử Mĩ, hiệu Thảo Đường,  đời sau gọi là Đỗ Thiếu Lăng, Đỗ Lăng Tẩu, Đỗ Công Bộ. Sống vào thời Thịnh Đường (713 – 766).  Tổ tiên ởTương Dương, sinh ở huyện Củng,  nay thuộc tỉnh Hà Nam. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình quan lại  đã sa sút, bảy tuổi đã biết làm thơ, mười bốn tuổi đã thành nhà thơ trẻ nổi tiếng.  Ông có lần thi tiến sĩ nhưng không đỗ, bèn bỏ đi chu du thiên hạ. Năm 755,nhân đến Trường An có dâng cho vua Đường Huyền Tông ba bài phú, vua xem thấy văn tài xuất chúng mới cho làm Đãi chế tập hiền viên. Lúc này ông đã 42 tuổi.Vài tháng sau loạn An Lộc Sơn xảy ra, ông bị bắt giam ở Trường An và một năm sau mới trốn thoát được. Đường Túc Tông  cho ông giữ chức Hữu tập di rồi Hoa châu tư công. Tình hình quan trường  lúc này vô cùng hỗn loạn, ông chán nãn từ quan bỏ về đất Từ Châu hái rau kiếm củi, rồi lưu lạc tới Kiến Nam , cả gia đình sống  nghèo khổ cơ cực trong 4 năm nhưng sau  đó may nhờ có bạn bè giúp đỡ. Nghiêm Vũ xin cho ông làm Tham mưu kiểm hiệu Công bộ viên ngoại lang. Đến đời Đại Lịch, ông mất khi đi trên một chiếc thuyền, thọ 59 tuổi. 

* Tác phẩm: Còn lưu lại được 16 quyển thơ với hơn 1400 bài.

Cùng với Lý Bạch, ông được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc. tác phẩm của ông gây ảnh hưởng nhiều đến văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản. Ông từng được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi sử và Thi thánh. Đối với độc giả phương Tây, tầm vóc các tác phẩm của ông được đánh giá ngang với"Horace, Shakespeare, Hugo, Baudelaire.vv...




       月 夜                     Nguyệt Dạ

今 夜 鄜 州 月,Kim dạ Phu Châu nguyệt,
閨 中 只 獨 看。Khuê trung chỉ độc khan.
遙 憐 小 兒 女,Dao liên tiểu nhi nữ,
未 解 憶 長 安。Vị giải ức Trường An
香 霧 雲 鬟 濕,Hương vụ vân hoàn thấp
清 輝 玉 臂 寒。Thanh huy ngọc tý hàn.
何 時 倚 虛 幌,Hà thời ỷ hư hoảng,
雙 照 淚 痕 乾?Song chiếu lệ ngân can ? 

                             杜甫

*Dịch nghĩa:

        Đêm trăng

Đêm nay vầng trăng ở Phu Châu.
Nơi phòng khuê ,chắc chỉ riêng mình em đứng ngắm.
Ở xa, anh cảm thương cho con gái mình còn thơ dại .
Chưa biết nhớ Trường An.
Sương hương chắc đã thấm ướt tóc mây.
Tay ngọc đã lạnh vì ánh trăng trong
Biết đến bao giờ đôi ta cùng được tựa bên rèm cửa.
Để trăng chiếu cho đôi ngấn lệ khô ráo ?

                     *HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch


+Chú thích:
        Theo tư liệu văn học, bài thơ trên được Đỗ Phủ sáng tác vào năm 756. Trong loạn An Lộc Sơn, ông bị bọn giặc này bắt giam ở Trường An trong khi vợ con còn ở Phu Châu.

 

*Dịch thơ:

 *Bản dịch 1:

 
      Đêm trăng

  Đêm Phu Châu trăng sáng
  Phòng khuê lẻ bóng nhìn
  Cảm thương con gái nhỏ
  Chưa biết nhớ Trường An
  Sương hương chừng thấm tóc
  Tay ngọc lạnh trăng tàn
  Bao giờ chung rèm tựa
  Trăng chiếu mừng lệ tan
            *HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch

 

*Bản dịch 2:

                Đêm trăng

  Đêm nay trăng sáng ở Phu Châu
  Phòng vắng em trông lẻ bóng sầu
  Đất khách ngùi thương con bé dại
  Trường An quạnh nhớ kẻ mong nhau
  Sương hương thấm giọt nồng mây tóc
  Tay ngọc se trăng lạnh sắc màu
  Biết đến bao giờ ta tựa cửa
  Nhìn trăng soi ráo lệ buồn đau
            *HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch

·* Bản dịch khác của Tản Đà:


           Đêm Trăng

Châu Phu này lúc trăng soi,
Buồng the đêm vắng riêng coi một mình.
Đoái thương thơ dại đầu xanh,
Tràng An chưa biết mang tình nhớ nhau.
Sương sa thơm ướt mái đầu,
Cánh tay ngọc trắng lạnh màu sáng trong.
Bao giờ tựa bức màn không,
Gương soi chung bóng lệ dòng dòng khô. 



· * Các bài thơ khác của Đỗ Phủ:


        曲江其一

一 片 花 飛 減 卻 春,  
風 飄 萬 點 正 愁 人。 
且 看 欲 盡 花 經 眼, 
莫 厭 傷 多 酒 入  唇。 
江 上 小 堂 巢 翡 翠, 
苑 邊 高 冢 臥 麒 麟。 
細 推 物 理 鬚 行 樂, 
何 用 浮 名 絆 此  身?

.                           杜甫

*Dịch âm:

Khúc Giang  
                        - Kỳ nhất

Nhất phiến hoa phi giảm khước xuân
Phong phiêu vạn điểm chính sầu nhân
Thả khan dục tận hoa kinh nhãn
Mạc yếm thương đa tửu nhập thần
Giang thượng tiểu đường sào phỉ thúy
Uyển biên cao trủng ngọa kỳ lân
Tế suy vật lý tu hành lạc
Hà dụng phù danh bạn thử thân
                                 * Đỗ Phủ
             
*Dịch nghĩa:

       AO KHÚC GIANG
                             (Bài Một)

 Một mảnh hoa rơi bay làm giảm bớt vẻ đẹp của xuân
Lúc gió thổi  tung vạn cánh hoa đến mọi nơi cũng chính
 là lúc  làm cho người buồn.
Hãy nhìn  và cảm  nhận hết hoa bay qua trong mắt.
Đừng nên chán vì xót thương nhiều, cứ để rượu thấm môi
Chim phỉ thúy còn làm tổ ở ngôi nhà trên sông.
Trong khi con kỳ lân lại nằm im nơi ngôi mộ bên vườn.
Suy cho cùng về lý lẽ của sự vật, ta nên hưởng thú vui.
Tại sao còn để phù danh trói buộc tấm thân này?
 

+Chú thích:
-          Bài thơ này Đỗ Phủ sáng tác vào năm 758.
-          Phỉ thúy: Chim trả, chim bói cá. Loại chim có lông rất đẹp, dùng làm đồ trang sức ở trên đầu
-          Kì lân: Là loại thú tưởng tượng, một trong bốn loại tứ linh. Người xưa gọi kì lân là giống thú nhân đức. Con đực gọi là kì, con cái gọi là lân. Khi có bậc vương giả, thánh minh ra đời là có lân xuất hiện.
  -          Phù danh: Danh nổi. Người xưa quan niệm công danh như mây nổi.

 
*Dịch thơ:

               AO KHÚC GIANG
                                           (Bài 1)

Một mảnh hoa bay xuân kém tươi
Gió tung ngàn cánh để sầu người
Hãy nhìn cảm tận hoa trong mắt
Đừng xót thương nhiều rượu thấm môi
Chim thúy ven sông còn kết tổ
Kì lân bên mộ lặng im hơi
Suy cùng trời đất nên vui sống
Sao  để phù danh buộc
 trói  đời?

                      *HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch

 

旅夜書懷

細 草 微 風 岸, 
危 檣 獨 夜 舟。 
星 垂 平 野 闊, 
月 涌 大 江 流。 
名 豈 文 章 著, 
官 應 老 病 休。 
飄 飄 何 所 似? 
天 地 一 沙 鷗。


               杜甫


* Dịch âm:

LỮ DẠ THƯ HOÀI

Tế thảo vi phong ngạn
Nguy tường độc dạ chu,
Tinh thùy bình dã khoát,
Nguyệt dũng đại giang lưu
Danh khởi văn chương trứ,
Quan ưng lão bệnh hưu.
Phiêu phiêu hà sở tự,
Thiên địa nhất sa âu.

 
*Dịch Nghĩa:

     NỖI LÒNG ĐÊM THA HƯƠNG

Gió thổi nhẹ trên bờ cỏ nhỏ
Thuyền xuôi đêm qua vách núi đá cao
Sao rủ xuống đồng bằng rộng
Trăng chập chờn trong dòng chảy sông lớn
Danh hảo gì  ở văn chương ?
Ta thôi việc quan vì già yếu
Nơi ở còn trôi nổi, chưa biết chốn nào
Như cánh chim âu trên cát bị dạt trong trời đất.
                     *HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch

  *Bài thơ này đươc tác giả sáng tác vào năm 765  
*Dịch thơ:

   NỖI LÒNG ĐÊM THA HƯƠNG

   Bờ cỏ gió nhẹ lay
  Thuyền xuôi đêm vách núi
  Sao rủ xuống đồng bằng
  Trăng nhồi trên sông lớn
  Danh hảo gì văn chương?
  Quan hưu vì già yếu
  Chỗ ở còn lênh đênh
  Chim âu trời đất dạt.


            *
HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch


0 Comments

    DANH MỤC TÁC GIẢ:

    All
    BẠCH CƯ DỊ
    Bạch Cư Dị (tt)
    Ban Tiệp Dư
    ĐẶNG DUNG
    Đào Tấn - Việt Nam
    ĐỖ MỤC
    ĐỖ PHỦ
    ĐỖ THU NƯƠNG
    DƯƠNG KHÔNG LỘ
    Hương Hải Thiền Sư
    HUYỀN QUANG
    KHUYẾT DANH
    KHUYẾT DANH
    KIỀU TRI CHI
    Lâm Bô
    Liễu Vĩnh
    LƯ ĐỒNG
    LƯ ĐỒNG ( LÔ ĐỒNG )
    LƯƠNG Ý NƯƠNG
    LÝ BẠCH
    LÝ BẠCH (t.t)
    LÝ CHI NGHI
    Lý Diên Niên
    LÝ THANH CHIẾU
    LÝ THƯƠNG ẨN
    MÂN GIÁC
    MẠNH GIAO
    Mạnh Giao (tt)
    MẠNH HẠO NHIÊN
    NGUYỄN DU
    QUỲNH DAO
    TÀO TUYẾT CẦN
    THÔI HIỆU
    THÔI HỘ
    TÔ HUỆ
    Tô Thức (Tô Đông Pha)
    Trác Văn Quân
    TRẦN TỬ NGANG
    Trung Quốc (tt)
    TRƯƠNG KẾ
    Trương Nhược Hư
    TRƯƠNG TỊCH
    Trương Tịch (tt)
    TỪ AN TRINH
    VƯƠNG DUY
    Vương Xương Linh

Powered by Create your own unique website with customizable templates.