TRANG THƠ HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG
  • TRANG CHỦ
  • THƠ SÁNG TÁC
    • THƠ MỚI >
      • Thơ sáng tác phần 1
      • Thơ sáng tác phần 2
      • Thơ sáng tác phần 3
      • Thơ sáng tác phần 4
      • Thơ sáng tác phần 5
    • THƠ ĐƯỜNG
  • THƠ DỊCH
    • Thơ dịch chữ Hán
    • Thơ Anh
    • Thơ Pháp
    • Thơ dịch các nước khác
  • Trang ghi chép
  • LIÊN HỆ

HOÀNG HẠC LÂU - NGUYỄN  DU

12/5/2013

0 Comments

 

                                      NGUYỄN DU (阮攸)
                                 (1765   -   1820) – Việt Nam

 Nguyễn Du tự là Tố Như (素 如),hiệu Thanh Hiên (清軒), còn có biệt hiệu là Hồng Sơn  Liệp Hộ (鸿山獵户: Người săn bắn ở núi Hồng), quê ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là đại thi hào của Việt Nam, tác giả của truyện Kiều (còn có các tên khác là Kim Vân Kiều tân truyện 金 雲 翘 新 傳 hoặc Đoạn trường tân thanh 斷 腸 新 聲). Ngoài ra còn có  tập thơ viết bằng chữ Hán " Bắc hành thi tập" 北 行 詩 集 (tập thơ đi sứ sang Tàu -  năm 1813).Thanh Hiên thi tập...

               Sau đây xin giới thiệu bài thơ vịnh Hoàng Hạc lâu của ông, một bài thơ có ở Bắc hành thi tập, có lẽ nó được làm trong thời gian ông đi sứ sang Trung Quốc (1813 – 1814) khi ông đi thăm địa danh này. Từ lâu chúng ta chỉ nghe danh bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, mà không ngờ rằng ở Việt Nam chúng ta cũng có một bài Hoàng Hạc lâu rất xuất sắc . Có lẽ ông là người Việt Nam đầu tiên có nguyên cả một bài  thơ về lầu Hoàng Hạc.

 
            黃 鶴 樓
                   Hoàng Hạc lâu
                           阮攸
                            Nguyễn Du

何 處 神 仙 經 幾 時,
Hà   xứ   thần  tiên  kinh   kỷ   thì
猶 留 仙 跡 此 江 湄?
Do    lưu   tiên  tích  thử giang mi ? 
今 來 古 往 爐 生 夢,
Kim   lai   cổ   vãng  Lư  sinh mộng      (1)
鶴 去 樓 空 崔 顥 詩。
Hạc  khứ  lâu không Thôi Hiệu thi   (2)
檻 外 煙 波 終 渺 渺,
Hạm ngoại yên ba chung diểu diểu 
眼 中 草 樹 尚 依 依。 
Nhãn trung thảo thụ thượng y y 
衷 情 無 限 朋 誰 訴,
Trung tình vô hạn bằng thùy tố 
明 月 清 風 也 不 知。
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri
                        *Trích trong  “Bắc hành thi tập”
  

 +Dịch nghĩa:
                 Lầu Hoàng hạc

Đã bao thời, thần tiên đi biệt qua những xứ nào?
Còn để vết tích lưu lại ở bên sông này.
Giấc mộng Lư sinh xưa đã qua nay còn chợt thoáng.        (1)
Hạc đi rồi còn lại lầu không, chỉ thấy Thôi Hiệu đề thơ.       (2)
Ngoài hiên khói sóng vẫn phủ  man mác.
Trong mắt cây cỏ vẫn còn xanh nguyên như trước.
Tình cảm chân thành vô hạn này biết bày tỏ cùng ai.
Trăng thanh, gió mát vẫn cứ vô tình nào đâu hay biết!
                             HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch.

+Dịch thơ:
                Lầu Hoàng Hạc
  
                  Thần tiên khuất bóng bao đời.
          Còn lưu dấu tích một thời bên sông.
                   Hoàng lương mộng trải theo dòng.  (1)
          Hạc xa, Thôi để tiếng lòng lầu thơ.             (2)
                   Hiên ngoài khói sóng ngẩn ngơ.
          Cỏ cây trong mắt đôi bờ vẫn xanh.
                   Biết ai bày tỏ nỗi mình.
          Trăng thanh gió mát vô tình nào hay.

                             HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch.
                                                  (29. 11. 2013)
 
 +Chú thích:
1)      Lư sinh mộng: Giấc mộng của thư sinh họ Lư, còn gọi là giấc mộng Hoàng lương (giấc mộng Kê vàng).
      Sách Chẩm trung ký đời Đường chép rằng: Có một chàng thư sinh họ Lư đi thi không đỗ,trọ ở Hàm Đan, một hôm Lư vào quán gặp một đạo sĩ tên là Lữ ông.Lư than van về cảnh nghèo khổ của mình.Vị đạo sĩ mới đưa cho Lư một cái gối, bảo Lư gối nằm ngủ thì sẽ thấy đời mình thay đổi như ý muốn. Lúc này chủ quán đang nấu một nồi kê. Lư đi vào giấc ngủ, mộng thấy mình lấy vợ đẹp giàu có, thi đỗ Tiến sĩ, làm quân đến Tiết độ sứ. Sau khi đánh được giặc được thăng làm Tể tướng. Cuộc đời làm quan có 20 năm hiển hách. Có 5 người con đều làm quan to. Sau vì dâng sớ hạch tội Lý Lâm Phủ nên bị cách chức. Lư thọ đến 80 tuổi mới chết.
      Khi tỉnh dậy, Lư thấy chủ quán nấu nồi kê chưa chín. Lư vỡ lẽ  hiểu việc đời ngắn ngủi như thời gian nằm mộng. Do có nấu nồi kê nên người ta mới gọi là "giấc mộng hoàng lương" bởi hoàng là vàng, lương là kê. (Có dựa theo một phần chú thích của Đào Duy Anh trong “Truyện Kiều-Nguyễn Du” và “Tầm nguyên từ điển” của Bửu Kế).
 2)      Thôi: là Thôi Hiệu hay còn gọi là Thôi Hạo ((704? -  754), một thi nhân đời Đường, nổi tiếng với bài thơ “Hoàng Hạc lâu” đã đề cập ở trên.
                                                          ***

0 Comments

    DANH MỤC TÁC GIẢ:

    All
    BẠCH CƯ DỊ
    Bạch Cư Dị (tt)
    Ban Tiệp Dư
    ĐẶNG DUNG
    Đào Tấn - Việt Nam
    ĐỖ MỤC
    ĐỖ PHỦ
    ĐỖ THU NƯƠNG
    DƯƠNG KHÔNG LỘ
    Hương Hải Thiền Sư
    HUYỀN QUANG
    KHUYẾT DANH
    KHUYẾT DANH
    KIỀU TRI CHI
    Lâm Bô
    Liễu Vĩnh
    LƯ ĐỒNG
    LƯ ĐỒNG ( LÔ ĐỒNG )
    LƯƠNG Ý NƯƠNG
    LÝ BẠCH
    LÝ BẠCH (t.t)
    LÝ CHI NGHI
    Lý Diên Niên
    LÝ THANH CHIẾU
    LÝ THƯƠNG ẨN
    MÂN GIÁC
    MẠNH GIAO
    Mạnh Giao (tt)
    MẠNH HẠO NHIÊN
    NGUYỄN DU
    QUỲNH DAO
    TÀO TUYẾT CẦN
    THÔI HIỆU
    THÔI HỘ
    TÔ HUỆ
    Tô Thức (Tô Đông Pha)
    Trác Văn Quân
    TRẦN TỬ NGANG
    Trung Quốc (tt)
    TRƯƠNG KẾ
    Trương Nhược Hư
    TRƯƠNG TỊCH
    Trương Tịch (tt)
    TỪ AN TRINH
    VƯƠNG DUY
    Vương Xương Linh

Powered by Create your own unique website with customizable templates.