(1084 - 1151)
Lý Thanh Chiếu hiệu là Dị An cư sĩ (易安居士), người Tế Nam, tỉnh Sơn Đông. Bà là con gái của nhà học giả Lý Cách Phi và cũng là nhà văn, mẹ bà cũng là người giỏi văn chương. Năm 18 tuổi, bà kết hôn với thái học sinh Triệu Minh Thành (1801-1129), là một nhà khảo chứng kim thạch học nổi tiếng và là con trai Tể tướng Triệu Đĩnh. Bà là một nữ quý tộc tài hoa: giỏi làm thơ, điền từ, vẽ tranh, víết chữ…nhưng nổi tiếng nhất là ở lĩnh vực sáng tác từ.Năm 1127, khi quân Kim lần lượt đánh chiếm nhà Tống, bà chạy theo triều đình về Nam Kinh, chồng mất, cuộc sống trôi nổi khốn khổ theo loạn lạc và bà qua đời ở đó .. Theo đánh giá của nhà văn Lâm Ngữ Đường, thì bà là nữ thi nhân bậc nhất của Trung Hoa.
+Tác phẩm gồm có: Dị An cư sĩ văn tập (易安居士文集) và Dị An từ (易安词) nhưng đã thất truyền, người đời sau thu thập lại khoảng 70 bài từ soạn thành cuốn Sấu Ngọc từ (漱玉词) và Lý Thanh Chiếu tập hiệu chú (李清照集校注).
Ngoài từ, thơ Lý Thanh Chiếu hiện nay còn 15 bài, phần lớn là loại thơ cảm thán thời thế, vịnh sử, gửi gắm tấm lòng yêu đất nước.
*Nguyêntác:
一剪梅 Nhất tiễn mai
紅藕香殘玉簟秋, Hồng ngẫu hương tàn ngọc điệm thu
輕解羅裳, Khinh giải la thường,
獨上蘭舟。 Độc thướng lan chu.
雲中誰寄錦書來? Vân trung thuỳ ký cẩm thư lai?
雁字回時, Nhạn tự hồi thì,
月滿西樓。 Nguyệt mãn tây lâu.
花自飄零水自流, Hoa tự phiêu linh thuỷ tự lưu,
一種相思, Nhất chủng tương tư,
兩處閑愁。 Lưỡng xứ nhàn sầu.
此情無計可消除, Thử tình vô kế khả tiêu trừ,
才下眉頭, Tài há my đầu,
又上心頭。 Hựu thướng tâm đầu
* 李清照 * Lý Thanh Chiếu
*Dịch nghĩa:
Bài từ theo điệu “Nhất tiễn mai”
Hương tàn ngó sen hồng, hơi thu đầy chiếu ngọc
Nhẹ vén xiêm y
Một mình bước lên thuyền lan
Trong mây có ai gửi gấm thư lại?
Lúc chim nhạn tự tìm về
Trăng đầy lầu tây.
Hoa tự phiêu dạt, nước tự trôi
Cùng một mối tương tư
Hai chốn cùng sầu
Tình này không có cách gì để tiêu tan.
Mối sầu mới dâng ở bờ mi
Đã nhói xuống trái tim.
*HOANG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
*Chú thích:
Bài từ này được bà viết ra để thể hiện tình cảm nhớ nhung sầu muộn đối với chồng bà là Triệu Minh Thành, lúc ông này đi làm thái thú và sau đó mất vì loạn lạc. Thời gian này bà sống một mình ở Thanh Châu. Bài từ này được chọn vào tuyển tập thơ tình nổi tiếng của Trung Quốc và đã được phổ nhạc với tên là “Nguyệt mãn tây lâu (月满西楼)
*Dịch thơ:
NHẤT TIỄN MAI
Hương tàn ngó sen hồng, hơi thu đầy chiếu ngọc.
Nhẹ vén xiêm y
Lên thuyền lan một bóng.
Trông mây ai gửi gấm thư về.
Nhạn tìm ai trở lại
Trăng ngập bóng lầu tây.
Hoa tự nổi trôi, dòng nước xuôi tự chảy.
Chung một mối tương tư
Hai chốn cùng sầu.
Tình này vô phương hóa giải
Mới trào ở bờ mi
Đã lặn xuống tim đau.
*HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
tiếng của Trung Quốc ở mọi thời đại. Riêng bà được
tôn xưng là “Trung Hoa đệ nhất tài nữ”