FÉLIX ARVERS
(1806 - 1850) Nhà thơ Pháp
Sinh ở Paris, là nhà thơ và nhà viết kịch của Pháp. Ông sáng tác tập thơ “Mes heures perdues” năm 25 tuổi, xuất bản vào năm 1883.Bài thơ “Un Secret” dưới đây là bài thơ nổi tiếng duy nhất của ông.
UN SECRET
(Sonnet d’Arvers)
« Mon âme a son secret, ma vie a son mystère :
Un amour éternel en un moment conçu.
Le mal est sans espoir, aussi j'ai dû le taire,
Et celle qui l'a fait n'en a jamais rien su.
Hélas ! j'aurai passé près d'elle inaperçu,
Toujours à ses côtés, et pourtant solitaire,
Et j'aurai jusqu'au bout fait mon temps sur la terre,
N'osant rien demander et n'ayant rien reçu.
Pour elle, quoique Dieu l'ait faite douce et tendre,
Elle ira son chemin, distraite, et sans entendre
Ce murmure d'amour élevé sur ses pas ;
À l'austère devoir pieusement fidèle,
Elle dira, lisant ces vers tout remplis d'elle :
« Quelle est donc cette femme ? » et ne comprendra pas. »
*Dịch nghĩa:
ĐIỀU BÍ MẬT
(Bài Sonnet của Arvers)
Tâm hồn tôi có điều giấu kín, đời tôi mang điều bí mật.
Một tình yêu thiên thu đã chớm nở trong khoảnh khắc.
Nỗi đau này tuyệt vọng nên tôi đành câm nín
Và người gây ra không bao giờ hay biết.
Than ôi! Tôi đi qua gần nàng mà nàng không để ý.
Tôi luôn ở cạnh nàng mà tôi vẫn cô đơn.
Và tôi sẽ giữ kín cho đến cùng tận thời gian của mình trên cõi đời này
Không dám cầu xin điều gì và cũng không dám nhận điều gì.
Về nàng, dù trời có ban cho nàng vẻ dịu dàng quyến rũ.
Nàng sẽ chỉ đi trên con đường của mình , lơ đãng và không nghe được.
Lời thì thầm của tình yêu vọng lên theo mỗi bước chân.
Với bổn phận phải đoan trang, đức hạnh, chung thủy.
Khi đọc những câu thơ hoàn toàn viết về nàng, chắc nàng sẽ hỏi:
“Đây là ngườ đàn bà nào?” và nàng cũng không hiểu gì hơn.
HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
*Dịch thơ:
+ Bản dịch 1:
ĐIỀU BÍ MẬT
(Bài Sonnet của Arvers)
Tôi chôn bí mật vào tim.
Mối tình vĩnh cửu lặng im với người.
Nỗi đau tuyệt vọng không lời.
Lòng hoa đâu rõ tơ trời oái ăm.
Tôi qua, nàng chẳng để tâm.
Bên người trong mộng vẫn thầm đơn côi.
Đành mang theo suốt cõi đời.
Nào mong dám nhận được lời yêu thương.
Diệu hiền, trời để sắc hương.
Sao nàng lơ đãng trên đường lặng câm.
Không nghe dẫm đạp dưới chân.
Tình yêu lên tiếng thì thầm xót xa.
Dẫu rằng bướm lượn đường hoa.
Nàng luôn giữ phận đàn bà tiết trinh.
Đọc thơ u uẩn về mình.
Nàng cho: “ Ai đó?”, nỗi tình nào hay!
HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
+ Bản dịch 2:
ĐIỀU BÍ MẬT
(Bài Sonnet của Arvers)
Tâm hồn tôi suốt đời mang bí mật.
Một tình yêu bỗng chốc hóa thiên thu.
Tình tuyệt vọng nên tôi đành câm nín.
Người gây ra nào hay nỗi thảm sầu!
Ôi! Tôi đi qua, nàng vẫn không để ý.
Ở cạnh nàng mà tôi vẫn cô đơn.
Đành chôn kín suốt thời gian cõi thế.
Không cầu xin, không dám nhận gì hơn.
Dù trời ban vẻ dịu dàng quyến rũ.
Trên đường đi, nàng lơ đãng vô tâm.
Không nghe được tình yêu theo mỗi bước thì thầm.
Với bổn phận giữ đoan trang, chung thủy .
Thơ về mình, nàng xem không suy nghĩ.
Hỏi: “Ai đây ?” và chẳng hiểu gì hơn!...
HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
* Chú thích:
Bài thơ “Un Scret”(Điều bí mật) là một bài thơ Sonnet kiểu Ý do Feslix Arvers sáng tác, nó vốn không có đầu đề. Sau này vì nó quá nổi tiếng nên giới văn học đặt cho nó cái tên là “Un Secret” hoặc thường gọi là “Sonnet d’Arvers” (Bài Sonnet của Arves). Bài thơ này được trích trong tập “Mes heures perdues”( Thời gian đánh mất, có người dịch là “Những giờ uổng phí”).đây là bài thơ nổi tiếng duy nhất của ông và văn học Pháp đã xem Arvers là “Nhà thơ của một bài thơ duy nhất”.
Dư luận thời ấy đã phỏng đoán người phụ nữ trong thơ mà ông đã mang mối tình tuyệt vọng chính là cô Marie Nordier, con của ông Charles Nodier (1780 – 1844) - một nhà văn và là Viện sĩ Hàn lâm Pháp. Ông này đứng đầu một văn đoàn thuộc trường phái lãng mạn, thường tổ chức bình thơ tại thư viện Arsenal, quy tụ nhiều nhà thơ nổi tiếng đương thời như Victor Huygo, Lamartine, Alfred de Vigny, Alfred de Musset. v.v...trong đó có Félix Arves. Cô Marie lại làm thư ký cho hội này. Cô có chồng vào năm 1833 và trở thành bà Marie Mennessier Nodier. Có lẽ Arvers đã quen và yêu cô với một mối tình đơn phương trong các thời gian kể trên.
Bài thơ trên được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Ở Việt Nam nó được Khái Hưng dịch ra lần đầu tiên trong một truyện ngắn có trước năm 1940, bản dịch này đã gây được tiếng vang vì lối dịch tài hoa , làm bài thơ giống như sáng tác bằng tiếng Việt chứ không phải là thơ dịch. Tuy nhiên cũng có một số ý kiến ngược lại...Từ ấy đến nay, đã có nhiều người dịch bài Sonnet trên bằng nhiều thể thơ khác nhau nhưng đa phần là thơ lục bát. Theo ý kiến của các nhà phê bình, tuyển tập thì họ cho rằng “ Qua các bản dịch, có người dịch theo nghĩa, có người dịch theo lối phóng tác, hoặc kết hợp cả hai nhưng rất hiếm bài sát nghĩa trọn vẹn , thậm chí có bài mà số câu, số khổ lại trái nghĩa so với nguyên tác”...Biết khó như vậy nhưng với tinh thần yêu thơ, chúng tôi cũng mạnh dạn góp mặt các bản dịch của mình ở trên để giúp vui cùng bạn đọc tuy biết rằng nó khó có thể vượt qua những hạn chế đã biết.
Sau đây chúng tôi phụ lục thêm một số bản dịch về bài Sonnet này bằng tiếng Việt hoặc tiếng Anh để bạn đọc thưởng thức tham khảo đối chiếu:
*Bản dịch của Khái Hưng:
SONNET D'ARVERS
(Tình tuyệt vọng)
Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thu
Tình tuyệt vọng nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay.
Hỡi ơi người đó, ta đây
Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân?
Dẫu ta đi trọn đường trần
Chuyện riêng đâu dám một lần hé môi.
Người dù ngọc thốt, hoa cười
Nhìn ta như thể nhìn người không quen,
Đường đời lặng lẽ bước tiên
Ngờ đâu chân đạp lên trên khối tình!
Một niềm tiết liệt, đoan trinh
Xem thơ nào biết có mình ở trong.
Lạnh lùng lòng sẽ hỏi lòng
Người đâu tả ở mấy giòng thơ đây
* Bản dịch tiếng Anh của Henry Wadsworth Longfellow (1807-1882):
MY SECRET
My soul its secret has, my life too has its mystery,
A love eternal in a moment's space conceived;
Hopeless the evil is, I have not told its history,
And she who was the cause nor knew it nor believed.
Alas! I shall have passed close by her unperceived,
Forever at her side, and yet forever lonely,
I shall unto the end have made life's journey, only
Daring to ask for naught, and having naught received.
For her, though God has made her gentle and endearing,
She will go on her way distraught and without hearing
These murmurings of love that round her steps ascend,
Piously faithful still unto her austere duty,
Will say, when she shall read these lines full of her beauty,
"Who can this woman be?" and will not comprehend.
* Dưới đây là phần trích đoạn trong bài viết của tác giả Thân Trọng Sơn đã viết về bài Sonnet của Arvers:
“...Thú vị hơn cả là bài dưới đây của LOUIS AIGOIN, thay lời người phụ nữ để đáp lại Arvers. Tác giả đã dùng lại 14 từ cuối cùng của 14 câu của bài Sonnet d’Arvers, lối pastiche này như thế gần giống với lối họa thơ của thơ Đường hay thơ Việt :
Ami, pourquoi me dire avec tant de mystère
Que l'amour éternel en votre âme conçu
Est un mal sans espoir, un secret qu'il faut taire
Et comment supposer qu'elle n'en ait rien su ?
Non, vous ne pouviez point passer inaperçu,
Et vous n'auriez pas dû vous croire solitaire.
Parfois les plus aimés font leur temps sur la terre
N'osant rien demander et n'ayant rien reçu.
Pourtant Dieu mit en nous un cœur sensible et tendre.
Toutes, dans le chemin, nous trouvons doux d'entendre
Le murmure d'amour élevé sur nos pas.
Celle qui veut rester à son devoir fidèle
S'est émue en lisant ces vers tout remplis d'elle:
Elle avait bien compris, mais ne le disait pas.
*Tạm dịch nghĩa :
Bạn hỡi, sao nói với tôi một cách bí mật thế
Rằng mối tình vĩnh cửu đã nảy sinh trong tâm hồn bạn
Là một nỗi đau vô vọng, một điều thầm kín không nên nói ra
Và sao lại cho rằng người phụ nữ đó không hề hay biết gì ?
Không, bạn không thể đi qua mà nàng không thấy
Và bạn không nên tưởng mình lẻ loi
Đôi khi những người được thương yêu nhất đi trọn đường trần
Không dám xin gì và không nhận được gì.
Tuy nhiên Trời đã ban cho chúng tôi một trái tim đa cảm và hiền dịu
Tất cả chúng tôi khi bước trên đường đều thích nghe
Tiếng ái tình thì thầm nổi lên trên những bước đi.
Người phụ nữ kia muốn luôn chung thủy với nghĩa vụ của mình
Đã xúc động khi đọc những vần thơ toàn nói về nàng
Đã hiểu rõ, nhưng nàng không nói ra đấy thôi.
*Thân Trọng Sơn dịch
*Bản dịch thơ của bà Mộng Tuyết Thất tiểu muội :
RIÊNG ĐÃ HAY RỒI
Nói chi những âm thầm thắc mắc
Bạn ta ơi ! Sao chác sầu chi ?
Nỗi lòng sao phải nín đi ?
Lại ngờ “ai”chẳng biết gì cả đâu.
Thôi thôi hãy chớ sầu vắng vẻ
Tấm tình kia còn kẻ biết cho
Xưa nay những kẻ yêu nhiều
Chỉ là trộm nhớ thầm yêu với tình.
Lòng đa cảm khuôn xanh phú thác
Phải rằng ai mộc mạc vô tri
Đường đời từ bước chân đi
Lòng ân ái cũng lắm khi bàng hoàng.
Thói băng tuyết ân cần giữ mực
Đọc thơ ai cảm xúc vì ai
Nỗi niềm riêng đã hay rồi
Nói ra còn ngại những lời thị phi.
( Dẫn theo Huyền Viêm - Kiến thức ngày nay số 577 – 20/8/2006 ). “
Marie Mennessier-Nodier