TRANG THƠ HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG
  • TRANG CHỦ
  • THƠ SÁNG TÁC
    • THƠ MỚI >
      • Thơ sáng tác phần 1
      • Thơ sáng tác phần 2
      • Thơ sáng tác phần 3
      • Thơ sáng tác phần 4
      • Thơ sáng tác phần 5
    • THƠ ĐƯỜNG
  • THƠ DỊCH
    • Thơ dịch chữ Hán
    • Thơ Anh
    • Thơ Pháp
    • Thơ dịch các nước khác
  • Trang ghi chép
  • LIÊN HỆ

Thơ Fredéric Mistral 

7/10/2015

0 Comments

 

                                   
                                       Fredéric Mistral 
                                     (1830-1914)- Pháp
                                                 

Picture

    Nhà thơ Provence (Pháp), giải Nobel Văn học 1904. Ông đã dùng tiền của giải thưởng Nobel lập Bảo tàng Văn hóa Dân gian ở Provence. Thơ của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng.

     O Magali
Chanson traditionnelle
       (Français)

1- "O Magali, ma tant aimée,
Mets la tête à la fenêtre !
Écoute un peu cette aubade
De tambourins et de violons.

- (Le ciel) est là-haut plein d'étoiles,
Le vent est tombé ;
Mais les étoiles pâliront
En te voyant.

2- Pas plus que du murmure des branches,
De ton aubade je fais cas ! 
Mais je m'en vais dans la mer blonde 
Me faire anguille de rocher. 

- O Magali, si tu te fais 
Le poisson de l'onde, 
Moi, pêcheur je me ferai, 
Je te pêcherai ! 

3- Oh ! mais, si tu te fais pêcheur, 
Quand tu jetteras tes verveux, 
Je me ferai l'oiseau qui vole, 
Je m'envolerai dans les landes. 

- O Magali, si tu te fais 
L'oiseau de l'air, 
Je me ferai, moi, le chasseur, 
Je te chasserai ! 

4- Aux perdreaux, aux becs-fins, 
Si tu viens tendre tes lacets, 
Je me ferai, moi, l'herbe fleurie 
Et me cacherai dans les prés vastes. 

- O Magali, si tu te fais 
La marguerite, 
Je me ferai, moi, l'eau limpide, 
Je t'arroserai !

5-
Si tu te fais l'onde limpide, 
Je me ferai, moi, le grand nuage, 
Et promptement m'en irai ainsi 
En Amérique, là-bas bien loin !

- O Magali, si tu t'en vas 
Aux lointaines Indes, 
Je me ferai, moi, le vent de mer, 
Je te porterai ! 

6- Si tu te fais le vent marin, 
Je fuirai d'un autre côté. 
Je me ferai l'échappée ardente 
Du grand soleil qui fond la glace ! 

- Ò Magali, si tu te fais 
Le rayonnement du soleil, 
Je me ferai, moi, le vert lézard, 
Et te boirai ! 

7- Si tu te rends la salamandre 
Qui se cache dans le hallier, 
Je me rendrai, moi, la pleine lune 
Qui éclaire les sorciers dans la nuit ! 

- O Magali, si tu te fais 
Lune sereine, 
Je me ferai, moi, belle brume, 
Je t'envelopperai ! 

8
- Mais si la brume m'enveloppe, 
Pour cela, tu ne me tiendras pas. 
Moi, belle rose virginale, 
Je m'épanouirai dans le buisson ! 

- O Magali, si tu te fais 
La rose belle, 
Je me ferai, moi, le papillon, 
Je te baiserai ! 

9- Va, poursuivant, cours, cours 
Jamais, jamais tu ne m'atteindras. 
Moi, de l'écorce d'un grand chêne 
Je me vêtirai dans la forêt sombre !

- O Magali, si tu te fais 
L'arbre des mornes, 
Je me ferai, moi, la touffe de lierre, 
Je t'embrasserai ! 

10- Si tu veux me prendre à bras-le-corps, 
Tu ne saisiras qu'un vieux chêne. 
Moi, je me ferai blanche nonnette 
Du monastère du grand Saint Blaise !

- O Magali, si tu te fais 
Nonnette blanche, 
Moi, prêtre, je confesserai, 
Et t'entendrai ! 

11- Si du couvent tu passes les portes, 
Tu trouveras toutes les nonnes 
Autour de moi, errantes 
Car en suaire tu me verras !

- O Magali, si tu te fais 
La pauvre morte, 
Adoncques je me ferai la terre, 
Là je t'aurai ! 

12- Maintenant, je commence enfin à croire
Que tu ne me parles pas en riant. 
Voici mon annelet de verre, 
En souvenir, beau jouvenceau !

- O Magali, tu me fais du bien ! … 
Mais, dès qu'elles t'ont vue, 
O Magali, vois les étoiles 
Comme elles ont pâli !


 ·      +  Dịch thơ:
           Magali
  
 1-     Ôi! Magali, người anh yêu vô kể!
 Hãy nghiêng đầu ra ngoài cửa sổ.
 Nghe chút nào bài nhạc sớm cùng anh.
 Theo điệu trống con và tiếng vĩ cầm.
  
 -  Bầu trời cao, còn đầy những vì sao.
 Gió đã giảm thành hơi dịu nhẹ.
 Các vì sao sẽ mờ nhạt lặn dần.
 Trong mắt em vừa nhìn lặng lẽ..
  
 2-     Không còn nhiều tiếng xạc xào của những cành cây.
 Làm ảnh hưởng em nghe khúc nhạc anh hòa điệu.
 Nhưng anh đang đi trong biển sóng vàng.
 Hóa thành con cá chình nằm tromg mõm đá.
  
 -         Ôi, Magali, nếu,em cũng làm  như vậy.
 Thành con cá bơi trong sóng lặng lờ.
 Anh sẽ hóa thân, thành người câu cá.
 Để câu lấy tình em!
 
 3-     Ôi! Nhưng nếu em thành người bắt cá.
 Khi em tung lưới, thả lờ.
 Anh sẽ hóa thành con chim bay bỗng.
 Nhẹ lướt cánh đồng hoang.
  
 - Ô! Magali, nếu em làm vậy.
 Thành con chim chắp cánh không gian.
 Anh sẽ hóa thành gã thợ săn theo đuổi.
 Để săn lấy tình em!
            
 4-     Ở loài gà gô, ở loài chim sẻ.
  Nếu em đến mang theo dây trói dịu dàng.
  Anh sẽ hóa thành khóm cỏ hoa tươi sáng.
  Giấu ẩn mình trong đồng cỏ thênh thang.
            
 -  Ôi! Magali, nếu em cũng làm như vậy.
 Trở thành nhành cúc tây.
 Anh sẽ làm dòng nước xanh trong vắt.
 Để tưới mát tình em!
  
 5-  Khi em thành gợn sóng trôi theo nước.
 Anh sẽ hóa thành đám mây lớn trên trời.
 Và nhanh chóng trôi đi vùn vụt.
 Về bên miền châu Mỹ xa xôi!
  
 -  Ôi! Magali, nếu em cũng đi như thế.
 Băng qua Ấn Độ phương này.
 Anh sẽ hóa thành làn gió biển.
 Để mang cùng em bay!
  
 6-     Nếu em cũng hóa thành gió biển.
 Anh tránh qua bên phía bờ ngăn.
 Để anh thoát ra khỏi vùng cháy rực.
 Nơi mặt trời làm tan chảy giá băng!
  
 - Ôi! Magali, nếu em cũng làm như vậy.
 Để tỏa ra tia nắng mặt trời.
 Anh sẽ hóa thành con thằn lằn xanh ẩn theo màu lá.
 Để em uống dòng băng trôi!
  
 7- Và nếu em hóa thành giống kỳ nhông.
 Thường ẩn trốn trong bờ bụi rậm.
 Anh trở lại làm mặt trăng tròn.
 Để chiếu sáng trong bóng đêm phù thủy!
  
 - Ôi! Magali, nếu em cũng biến hình như vậy.
 Để thành ánh trăng thanh.
 Anh sẽ hóa thành một màn sương đẹp.
 Đón tình em, bao phủ vây quanh!
  
 8- Nhưng sương mù bao phủ cả anh.
Để giữ điều này, em không có cách.
 Anh sẽ hóa thành đóa hồng trinh bạch.
 Nở bừng trong bụi cây!
  
 - Ôi! Magali, néu em cũng làm như vậy.
 Thành đóa hồng đẹp xinh.
 Anh sẽ hóa thành loài bướm.
 Đậu trên nhành hôn em!
  
 9-  Và nếu em cứ đuổi hoài theo dòng vô tận.
 Không bao giờ, không bao giờ em bắt được đâu.
 Anh sẽ hóa thành vỏ cây sồi to lớn.
 Mặc cho mình trong rừng thẳm âm u!
  
 - Ôi! Magali, nếu em cũng làm như vậy.
 Thành cây buồn ủ ê.
 Anh sẽ hóa thành dây thường xuân quấn quýt.
 Để ôm choàng hôn em!
 
 10-Nếu em muốn quấn choàng ngang lưng.
 Em sẽ không giũ được cả cây sồi cổ thụ.
 Anh sẽ hóa thành con chim sẻ trắng.
 Đậu trên nóc nhà tu của thánh Blaise
  
 - Ôi! Magali nếu em cũng làm như vậy.
 Thành chim sẻ trắng mượt mà.
 Anh sẽ hóa thành con chiên xưng tội.
 Kể rõ cùng em nghe!
  
 11-Nơi tu viện, nếu em qua từng cửa.
 Em sẽ tìm ra tất cả nữ tu.
 Bước quanh anh, lang thang đây đó.
 Bởi em thấy anh nằm trong vải liệm âm u!
  
 -  Ôi!, Magali, nếu em cũng làm như vậy.
 Trở thành cái chết đáng thương.
 Ngay lúc ấy, anh hóa mình thành đất.
 Để cùng về với em!
  
 12- Giờ anh mở ra niềm tin tưởng cuối cùng.
 Em có thể cười, không nói với anh.
 Đây chiếc nhẫn pha lê anh tặng.
 Kỷ niệm mang tình chàng tuổi trẻ đẹp trai!
 
 - Ôi! Magali, em sẽ hóa điều này cho anh tốt vậy!
 Nhưng phải kể từ khi họ chứng kiến em trao.
 Ôi! Magali, có thấy những vì sao.
 Chúng nhợt nhạt trên đầu em biết mấy!
             HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
  
 (*) Đây là bài hát dân gian của vùng Provence, được Mistral biên soạn và dịch thành lời thơ trong tiếng Pháp.
 - Phụ lục: Bài hát truyền thống theo tiếng
Provençal (thuộc ngôn ngữ miền nam nước Pháp):

  
         O Magali
 Chanson traditionnelle
          (Occitan)

1- O Magali ma tant amado
Mete la tèsto au fenestroun !
Escouto un pau aquesto aubado
De tambourin e de vióuloun.

- Es plen d'estello, aperamount!
L'auro es toumbado,
Mai lis estello paliran,
Quand te veiran!

2- Pas mai que dóu murmur di broundo,
De toun aubado iéu fau cas!
Mai iéu m'en vau dins la mar bloundo
Me faire anguielo de roucas.

- O Magali! se tu te fas
Lou pèis de l'oundo,
Iéu, lou pescaire me farai, 
Te pescarai!

3- Oh! mai, se tu te fas pescaire,
Ti vertoulet quand jitaras,
Iéu me farai l'aucèu voulaire,
M'envoularai dins li campas.

- O Magali, se tu te fas
L'aucèu de l'aire,
Iéu lou cassaire me farai,
Te cassarai.

4- I perdigau, i bouscarido
Se vènes, tu, cala ti las,
Iéu me farai l'erbo flourido
E m'escoundrai dins li pradas

- O Magali, se tu te fas
La margarido, 
Iéu l'aigo lindo me farai
T'arrousarai.

5- Se tu te fas l'eigueto lindo
Iéu me farai lou nivoulas
E lèu m'enanarai ansindo
A l'Americo, perabas!

- O Magali, se tu t'envas
Alin in Indo,
L'auro de mar iéu me farai,
Te pourtarai!

6- Se tu te fas la marinado,
Iéu fugirai d'un autre las: 
Iéu me farai l'escandihado
Dóu grand soulèu que found lou glas!

- O Magali, se tu te fas
La souleiado,
Lou verd limbert iéu me farai,
E te béurai !

7- Se tu te rèndes l'alabreno
Que se rescound dins lou bartas,
Iéu me rendrai la luno pleno
Que dins la niue fai lume i masc!

- O Magali, se tu te fas
Luno sereno,
Iéu bello nèblo me farai,
T'acatarai.

8- Mai se la nèblo m'enmantello
Tu, pèr acò, noun me tendras ; 
Iéu, bello roso vierginello,
M'espandirai dins l'espinas! 

- O Magali, se tu te fas
La roso bello,
Lou parpaioun iéu me farai,
Te beisarai.

9- Vai, calignaire, courre, courre!
Jamai, jamai m'agantaras.
Iéu, de la rusco d'un grand roure
Me vestirai dins lou bouscas.

- O Magali, se tu te fas
L'aubre di moure,
Iéu lou clot d'èurre me farai 
T'embrassarai!

10- Se me vos prene à la brasseto,
Rèn qu'un vièi chaine arraparas...
Iéu me farai blanco moungeto
Dóu mounastié dóu grans Sant Blas!

- O Magali, se tu te fas
Mounjo blanqueto,
Iéu, capelan, counfessarai,
E t'ausirai!

11- Se dóu couvènt passes li porto,
Tóuti li mounjo trouvaras
Qu'à moun entour saran pèr orto,
Car en susàri me veiras!

- O Magali, se tu te fas
La pauro morto,
Adounc la terro me farai
Aqui t'aurai!

12- Aro coumence enfin de crèire
Que noun me parles en risènt :
Vaqui moun aneloun de vèire
Pèr souvenènço, o bèu jouvènt!

- O Magali me fas de bèn! ...
Mai, tre te veire,
Ve lis estello, o Magali, 
Coume an pali!

                                         
  *
  

0 Comments

Thơ Stéphane Mallarme

7/10/2015

0 Comments

 

                                 Stéphane Mallarme
                                     (1842 – 1898)- Pháp

Picture

Tên thật là Étienne Mallarmé, sinh ở Paris và mất ở Valvins. Là nhà thơ của Pháp, giáo sư dạy tiếng Anh. Ông được xem  là nhà thơ lớn của thế kỷ 19, mang tính hiện đại, đi đầu trong nghệ thuật phong trào thơ “Tượng trưng” và đã chịu ảnh hưởng sâu sắc ở Baudelaire.. Có người cho thơ ông khó hiểu vì ngữ nghĩa bí hiểm... Ở Việt Nam, trong phong trào thơ mới trước năm 1945, nhiều nhà thơ danh tiếng đã ảnh hưởng ở thơ ông.

                  Apparition

La lune s'attristait. Des séraphins en pleurs 
Rêvant, l'archet aux doigts, dans le calme des fleurs 
Vaporeuses, tiraient de mourantes violes 
De blancs sanglots glissant sur l'azur des corolles. 

 
- C'était le jour béni de ton premier baiser. 
Ma songerie aimant à me martyriser 
S'enivrait savamment du parfum de tristesse 
Que même sans regret et sans déboire laisse 

 
La cueillaison d'un Rêve au coeur qui l'a cueilli. 
J'errais donc, l'oeil rivé sur le pavé vieilli 
Quand avec du soleil aux cheveux, dans la rue 
Et dans le soir, tu m'es en riant apparue 

 
Et j'ai cru voir la fée au chapeau de clarté 
Qui jadis sur mes beaux sommeils d'enfant gâté 
Passait, laissant toujours de ses mains mal fermées 
Neiger de blancs bouquets d'étoiles parfumées. 

                                                      
 ·        + Dịch thơ:
                       Xuất hiện

Trăng não nuột, thiên thần đầy nước mắt.
 Mơ ngón tay cung trong hoa lặng yên bình..
 Hơi mờ ảo cho vĩ cầm hấp hối.
 Thành nỉ non lướt trắng chuỗi hoa xanh.
  
 Đó là ngày nụ hôn đầu em ban phúc.
 Nỗi yêu thương mơ mộng đọa đày tôi.
 Hương đượm buồn làm cho say khéo léo.
 Không hối tiếc bâng khuâng, không thất vọng đau đời.
  
 Mùa quả mộng trong trái tim đã hái.
 Tôi lang thang, dán mắt phố già nua.
 Qua vỉa hè, nắng vàng buông trên tóc.
 Em xuất hiện mỉm cười, cho tôi cả chiều thơ.
  
 Tôi ngỡ thấy mũ nàng tiên rực sáng.
 Trong giấc mơ đứa trẻ được nuông chiều.
 Luôn để lại bàn tay hờ khép kín.
 Tuyết trắng chùm, sao tỏa ngát hương yêu.
             HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch

   (*)Có tư liệu cho là Mallarme viết bài thơ này vào năm 1862 (?), ông viết cho Maria Gerhard, người tình đầu tiên và cũng là người bạn đời của ông.Tuy nhiên Mallarme lại có nhiều người tình,trong đó có bà  Méry Laurent là người rất mật thiết gắn bó lâu dài và cũng là nguồn cảm hứng trong nhiều sáng tác văn chương của ông, bởi vậy cũng khó có thể xác định.là ông đã viết cho ai?.Nhưng xét cho cùng điều này cũng không thành vấn đề, chỉ có bài thơ hay mới là đáng kể!
 

Picture

                                                                   Méry Laurent
 - Xin giới thiệu bản dịch tiếng Anh để bạn đọc tham khảo đối chiếu.
                Apparition


The moon was saddening. Seraphim in tears
Dreaming, bow in hand, in the calm of vaporous
Flowers, were drawing from dying violins
White sobs gliding down blue corollas


--It was the blessed day of your first kiss. 
My dreaming loving to torment me
Was drinking deep of the perfume of sadness 
That even without regret and deception is left

By the gathering of a Dream in the heart which has gathered it.
I wandered then, my eyes on the worn pavement
When with the sun in your hair, and in the street
In the evening, you in laughter appeared to me

And I thought I saw the fairy with her cap of brightness
Who once on the beauty sleeps of my spoilt childhood
Passed, letting always her half-closed hands
Snow down white bouquets of perfumed stars.
Translated by Roger Fry
From Selected Poetry and Prose ©1982 by Mary Ann Caws
Reprinted by permission of New Directions Publishing Corp
.


0 Comments

Thơ Jean Cocteau

7/9/2015

0 Comments

 

                                 Jean Cocteau
                                   (1889 – 1963)

Picture

·         Jean Cocteau có tên đầy đủ là Jean Maurice Eugène Clément Cocteau, là một nhà thơ , nhà thiết kế đồ họa , vẽ tranh minh họa , nhà viết kịch và nhà làm phim người Pháp . Ông được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp năm 1955 và Viện hàn lâm Hoàng gia Bỉ về Ngôn ngữ và Văn học Pháp.
 
     Ton Silence

Ton amour est une science
Et de toi j’ai tout appris
Et j’écoute ton silence
Que je n’avais pas compris.


T’ai-je mal aime, cher ange !
Ange doux, ange brutal…
Pur, limpide, sans mélange
Ferme comme le cristal.


Dans ce cristal je contemple
Le désespoir évite.
Mon bonheur élève un temple
A ta jeune antiquité.

                     Jean Cocteau.
  
 ·        + Dịch thơ:
     Sự im lặng của em

Tình yêu của em là khoa học tinh vi.
Tôi học được ở em nhiều thứ.
Nghe từ im lặng của em.
Mà vẫn không hiểu được điều gì.
 
Có phải tôi là người không ai ưa, hỡi thiên thần yêu quí!
Thiên thần dịu ngọt! Thiên thần nhẫn tâm!
Mang chất đơn thuần, không pha trộn, sáng trong.
Rắn rỏi như pha lê lấp lánh.
 
Khi tôi lặng ngắm pha lê.
Tránh được nỗi niềm tuyệt vọng.
Hạnh phúc tôi, cả ngôi đền xây dựng.
Từ thời thanh xuân cổ đại của em.
                 HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
 
 

0 Comments

Thơ François-René de Chateaubriand

7/7/2015

0 Comments

 

                     François-René de Chateaubriand                                                       (1768-1848) - Pháp


Picture

François-René de Chateaubriand  là một nhà văn, nhà thơ, nhà ngoại giao người Pháp.... Ông được coi là người sáng lập ra trào lưu lãng mạn trong văn học Pháp.
Ông được bổ nhiệm vào viện Hàn lâm Pháp năm 1811.

                Clarisse
                       Imitation d'un poète Écossais. 

Oui, je me plais, Clarisse, à la saison tardive, 
Image de cet âge où le temps m'a conduit ; 
Du vent à tes foyers j'aime la voix plaintive 
Durant la longue nuit. 

Philomèle a cherché des climats plus propices ; 
Progné fuit à son tour : sans en être attristé, 
Des beaux jours près de toi retrouvant les délices, 
Ton vieux cygne est resté. 

Viens dans ces champs déserts où la bise murmure 
Admirer le soleil, qui s'éloigne de nous ; 
Viens goûter de ces bois qui perdent leur parure 
Le charme triste et doux. 

Des feuilles que le vent détache avec ses ailes 
Voltige dans les airs le défaillant essaim : 
Ah ! puissé-je en mourant me reposer comme elles 
Un moment sur ton sein ! 

Pâle et dernière fleur qui survit à Pomone, 
La veilleuse en ces prés peint mon sort et ma foi : 
De mes ans écoulés tu fais fleurir l'automne, 
Et je veille pour toi. 

Ce ruisseau, sous tes pas, cache au sein de la terre 
Son cours silencieux et ses flots oubliés : 
Que ma vie inconnue, obscure et solitaire, 
Ainsi passe à tes pieds ! 

Aux portes du couchant le ciel se décolore ; 
Le jour n'éclaire plus notre aimable entretien : 
Mais est-il un sourire aux lèvres de l'Aurore 
Plus charmant que le tien ? 

L'astre des nuits s'avance en chassant les orages : 
Clarisse, sois pour moi l'astre calme et vainqueur 
Qui de mon front troublé dissipe les nuages 
Et fait rêver mon coeur.

  
 ·       + Dịch thơ:
                    Clarisse
 
                     (Nữ tu)

            Mô phỏng theo một nhà thơ Ê-cốt.
 
Vâng, ở cuối mùa, tôi thích cô, Cờ-la-ri.
Hình ảnh ở tuổi này mặc thời gian dẫn dắt.
Ngọn gió đến nhà cô, tôi yêu tiếng thầm thì.
Thổi dài qua đêm tối.
 
Con sơn ca đã thích hợp khí trời.
Loài chim nhạn lánh đi không phiền muộn.
Ngày đẹp trời cô thấy được niềm vui.
Con thiên nga xưa vẫn còn lưu lại.
 
Hãy đến cánh đồng hoang trong gió bấc vi vu.
Chiêm ngưỡng mặt trời nơi xa xôi ta ở.
Đến thưởng thức khu rừng còn sắc thái tự nhiên.
Đầy quyến rũ, phảng phất buồn êm ả..
 
Những chiếc lá lìa cành theo cánh gió bay đi.
Nhào lượn trong không gian, rơi từng hồi lả tả.
Ôi! Có thể nào tôi cũng sắp tàn như xác lá phơi.
Một khoảnh khắc thoáng lòng cô nơi đó.
 
Hoa nhợt nhạt cuối cùng còn sống ở Pô-môn.
Ánh đèn ngủ trên bãi cỏ xanh, hắt lên số phận tôi và đức tin cô hiu hắt.
Trong những năm lưu chuyển đời tôi, cô đã làm nở sắc hoa thu.
Và tôi đã vì cô thao thức.
 
Con suối này dưới bước cô qua, còn để dấu in vào lòng đất.
Dòng nước trôi yên tĩnh, bao gợn sóng bỏ quên.
Như cuộc sống mơ hồ của tôi, tối tăm cô độc.
Cũng giống như bàn chân cô đi qua mỗi lúc.
 
Nơi khung cửa mặt trời lặn úa màu.
Ngày không còn sáng hơn cho câu chyện chúng ta yêu thích.
Nhưng có phải đó là nụ cười trên đôi môi rạng đông.
Hơn hình dáng của cô xinh xắn?
 
Ngôi sao đêm lộ hình trước khi bão tới.
Cờ-la-ri, hãy cho tôi biết về ngôi sao chiến thắng, yên bình.
Sẽ xua tan những đám mây trên đầu tôi tăm tối.
Và cho tôi giấc mộng của con tim.
            HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
                               *
                            
    
 

0 Comments

Thơ Théophile Gautier

7/1/2015

0 Comments

 

                               Théophile Gautier
                               (1811-1872) - Pháp

Picture

          Tên đầy đủ là Pierre Jules Théophile Gautier, là một nhà thơ, họa sĩ, nhà văn, nhà viết kịch,nhà báo và nhà phê bình văn học của Pháp. Theo trường phái Lãng mạn và Thi sơn. (Romantisme, Parnasse). 

           À deux beaux yeux
 
 
 Vous avez un regard singulier et charmant ; 
Comme la lune au fond du lac qui la reflète, 
Votre prunelle, où brille une humide paillette, 
Au coin de vos doux yeux roule languissamment ;

Ils semblent avoir pris ses feux au diamant ; 
Ils sont de plus belle eau qu'une perle parfaite, 
Et vos grands cils émus, de leur aile inquiète, 
Ne voilent qu'à demi leur vif rayonnement.

Mille petits amours, à leur miroir de flamme, 
Se viennent regarder et s'y trouvent plus beaux, 
Et les désirs y vont rallumer leurs flambeaux.

Ils sont si transparents, qu'ils laissent voir votre âme, 
Comme une fleur céleste au calice idéal 
Que l'on apercevrait à travers un cristal.

                                            Théophile Gautier.
 ·     +   Dịch thơ:
           Đôi mắt đẹp

Em có vẻ nhìn quyến rũ dễ thương.
 Như mặt trăng tự đáy hồ phản chiếu.
 Đôi ngươi ướt sáng long lanh ảo diệu.
 Lộng điểm vàng lăn trong khóe dịu êm.
  
 Chúng dường như có mượn lửa kim cương.
 Cho ánh nước đẹp hơn màu ngọc trai ẩn bóng.
 Hàng mi dài chớp cánh mi lay động.
 Nửa che hờ cho tia sáng tỏa buông.
  
 Ngàn kẻ yêu chuốc ánh lửa trong gương.
 Sẽ đến trông , tìm ra điều đẹp nhất.
 Và mong ước nhóm lên ngọn lửa hồng sáng rực.
  
 Tâm hồn em hiện ở mắt gương soi.
 Như đài hoa mang ý nghĩa tuyệt vời.
 Cho người nhận từ pha lê trong suốt.
             HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
  
 
·       + Giới thiệu bản dịch tiếng Anh để tham khảo:
              To Two Beautiful Eyes
                       ( Théophile Gautier )

Remarkable charm does from your glances arise
Like the moon reflected from the depths of a lake,
Where glistening sequins glow in the light
To play in the corners of amorous eyes. 

It seems they have taken their diamond blaze
From perfect pearls in more beautiful waters;
And, so anxiously beating, your fluttering lashes
Veil only a half of their radiant gaze. 

A thousand admirers who search for beauty untold
Come to look into your mirrors of flame
Where their desires return to light torches again. 

So transparent are they that one sees in your soul
A heavenly flower that has so flawless a petal
Like that perceived when viewed through a crystal. 

                                 Translation:  David Paley



Picture
0 Comments

Thơ Louis Aragon

6/28/2015

0 Comments

 

                                   Louis Aragon
                                (1897-1982) - Pháp

Picture

Louis Aragon là nhà thơ, nhà văn, nhà chính trị, nhà phê bình Pháp, thành viên của Viện hàn lâm Goncourt., là thành viên của đảng Cộng sản Pháp. Ông để lại  nhiều tác phẩm có giá trị cao trong văn học nghệ thuật Pháp và thế giới. Ở Việt Nam, Bộ Giáo duc và Đào tạo đã đưa thơ ông vào chương trình Trung học Phổ thông để giảng dạy cho học sinh.

 Les yeux d'Elsa 

Tes yeux sont si profonds qu'en me penchant pour boire 
J'ai vu tous les soleils y venir se mirer 
S'y jeter à mourir tous les désespérés 
Tes yeux sont si profonds que j'y perds la mémoire 

À l'ombre des oiseaux c'est l'océan troublé 
Puis le beau temps soudain se lève et tes yeux changent 
L'été taille la nue au tablier des anges 
Le ciel n'est jamais bleu comme il l'est sur les blés 

Les vents chassent en vain les chagrins de l'azur 
Tes yeux plus clairs que lui lorsqu'une larme y luit 
Tes yeux rendent jaloux le ciel d'après la pluie 
Le verre n'est jamais si bleu qu'à sa brisure 

Mère des Sept douleurs ô lumière mouillée 
Sept glaives ont percé le prisme des couleurs 
Le jour est plus poignant qui point entre les pleurs 
L'iris troué de noir plus bleu d'être endeuillé 

Tes yeux dans le malheur ouvrent la double brèche 
Par où se reproduit le miracle des Rois 
Lorsque le coeur battant ils virent tous les trois 
Le manteau de Marie accroché dans la crèche 

Une bouche suffit au mois de Mai des mots 
Pour toutes les chansons et pour tous les hélas 
Trop peu d'un firmament pour des millions d'astres 
Il leur fallait tes yeux et leurs secrets gémeaux 

L'enfant accaparé par les belles images 
Écarquille les siens moins démesurément 
Quand tu fais les grands yeux je ne sais si tu mens 
On dirait que l'averse ouvre des fleurs sauvages 

Cachent-ils des éclairs dans cette lavande où 
Des insectes défont leurs amours violentes 
Je suis pris au filet des étoiles filantes 
Comme un marin qui meurt en mer en plein mois d'août 

J'ai retiré ce radium de la pechblende 
Et j'ai brûlé mes doigts à ce feu défendu 
Ô paradis cent fois retrouvé reperdu 
Tes yeux sont mon Pérou ma Golconde mes Indes 

Il advint qu'un beau soir l'univers se brisa 
Sur des récifs que les naufrageurs enflammèrent 
Moi je voyais briller au-dessus de la mer 
Les yeux d'Elsa les yeux d'Elsa les yeux d'Elsa.
                                                            (1942)


·      +  Dịch thơ:

            Đôi mắt Elsa

Mắt em sâu, anh cúi mình xuống uống.
Thấy mặt trời chớm mọc để anh trông.
Nó xua tan nỗi chết người tuyệt vọng.
Mắt em sâu, anh quên hết chuyện lòng.
 
Dưới bóng chim là đại dương nổi sóng.
Tiết đẹp trời thoáng chyển mắt em ngây.
Hè lộ dáng áo choàng mây thiên sứ.
Trời không xanh như sắc lúa phô bày.
 
Gió rượt đuổi không gian buồn vô vọng.
Mắt em trong hơn giọt lệ long lanh.
Sau cơn mưa để bầu trời ganh tị.
Màu thủy tinh rạn vỡ ánh càng xanh.
 
Đó là mẹ Bảy nỗi đau, đẫm chiếu.             (1)
Bảy thanh gươm xuyên lăng kính thủng màu.
Ngày tích tụ xót xa đầy nước mắt.
Buồn đi qua, mắt lại biếc dòng sâu
 
Trong bất hạnh mở nhân đôi khoảng trống.
Ánh quân vương sinh phép lạ diệu kỳ.
Khi trái tim chuyển ba vòng nhịp đập.
Máng cỏ mầu hiển hiện áo Ma-ri.
 
Lời tháng Năm đủ vừa cho cửa miệng.     (2)
Mọi bài ca dành tất cả vì người.
Trời quá hẹp cho triệu vì tinh tú.
Cho mắt em và bí mật song đôi.
 
Như đứa bé say mê hình ảnh đẹp.
Mắt mở to nhưng hiểu có là bao.
Trông mắt em, anh chưa hề thấy dối.
Hình như hoa dại nở dưới mưa rào.
 
Tia sáng ẩn trong oải hương lấp lánh.      (3)
Lũ côn trùng lịm tắt lửa tình yêu.
Anh gỡ rối từ ngôi sao xe sợi.
Giữa biển trời, thủy thủ chết cô liêu.
 
Anh lọc chất ra-đi-um khỏi quặng.
Lửa dẫu ngăn, vẫn cháy bỏng tay mình.
Ôi! Thiên đường trăm lần tìm để mất.
Mắt em là những xứ sở của anh.                (4)
 
Buổi chiều đẹp làm nổ tung vũ trụ.
Bãi đá ngầm làm đắm cháy tàu qua.
Anh đã thấy mặt biển xanh bừng sáng.
Mắt Elsa..., mắt Elsa..., vời vợi mắt Elsa...            (5)
                        HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
 
 
(1)   Bảy nỗi đau:Theo sự tích của Công giáo, đó là Bảy nỗi đau của Đức Mẹ. Bởi vậy, cụm từ “Mẹ của Bảy nỗi đau” còn có nghĩa là “Đức Mẹ Sầu Bi” hay “Đức Mẹ Bảy Sự”.
(2)   Tháng Năm:Ở đây là “tháng dâng hoa kính Đức Mẹ” của người Công giáo..
(3)   Oải hương (Lavande): Tên một loài cây ngắn có hoa hình thùng, mùi thơm ngọt và lâu.Người dân Pháp trồng để lấy tinh dầu.
           Nước oải hương là loại nước cất, có mùi thơm cây oải hương.Câu “Tia sáng ẩn trong oải hương lấp lánh”, có thể hiểu là tia sáng ẩn chiếu trong nước oải hương (ngầm chỉ tia sáng ánh mắt)
(4)   Mắt em là những xứ sở của anh: Dịch rút gọn từ nghĩa nguyên tác: “Mắt em là xứ Pérou, xứ Golconde, xứ Ấn Độ của anh”( Tes yeux sont mon Pérou ma Golconde mes Indes ).
(5)   Ở câu nguyên tác: “Les yeux d'Elsa les yeux d'Elsa les yeux d'Elsa”(Đôi mắt Elsa, đôi mắt Elsa, đôi mắt Elsa.”tác giả  lập lại 3 lần “Đôi mắt Elsa” để kết thúc bài thơ mà không thêm một từ nào khác. Cách thể hiện này có rất nhiều dụng ý và nhờ đó mà nghĩa lại rộng vô cùng,, khó biết tác giả dừng ở ý nào (vì đôi mắt ấy có thể hiểu  là kỳ diệu, hoặc vời vợi, hoặc tha thiết, hoặc đắm đuối, hoặc tuyệt đẹp,hoặc mơ màng, hoặc gợi tình,hoặc sầu muộn....vv và vv....) Tuy nhiên qua thơ Việt,vì lệ thuộc vào tính nhạc của cấu trúc câu, nên không thể giữ  nguyên nghĩa mà phải thêm từ theo ý cảm nhận của mình về tác giả để câu thơ mới đọc xuôi tai..Bởi vậy chúng tôi đành phải mạo muội dịch như trên. Theo tinh thần ấy,câu này cũng có thể dịch là “Mắt người tình vời vợi!...Mắt Elsa!...” để câu thơ có tính nhạc hay hơn là giữ nguyên văn hoặc cố giữ nguyên văn như câu thơ dịch trên..

Picture

                                     Elsa Triolet (1896-1970)

Elsa Triolet có tên khai sinh là Ella Kagan và có bút danh là  Laurent Daniel, là một nữ văn sĩ Pháp được giải Goncourt năm 1944, bà là người Nga, gốc Do Thái sang cư trú ở Pháp.Bà có chồng là một sĩ quan kỵ binh Pháp, tên là Andrew Triolet. Được 2 năm, họ ly dị. Năm 1928, bà gặp Aragon  và họ trở thành người yêu của nhau. Năm 1939 họ làm đám cưới và chung sống đến mãn đời. Bà là nguồn cảm hứng để Aragon viết rất nhiều bài thơ tình nổi tiếng như “Bài thơ về  hạnh phúc và  Elsa”, "Đôi mắt Elsa", “Bàn tay Elsa” "Tình yêu Elsa","Người điên của Elsa", "Elsa ngồi trước gương" vv...

Picture

                             Cánh đồng hoa oải hương

0 Comments

Thơ Philippe Jaccottet

6/17/2015

0 Comments

 

                                  Philippe Jaccottet
                       (1925 - .......) - Pháp (gốc Thụy Sĩ)


Picture

        Philippe Jaccottet sinh ngày 30.6.1925 tại Moudon, Thụy Sĩ.  Tuy nhiên ông đã đến Paris năm 1946 để sinh hoạt, giao du văn chương với giới văn nghệ sĩ Pháp , sau đó ông đã định cư ở miền nam nước Pháp. Ông là nhà thơ, nhà văn xuất sắc của thời hiện đại Pháp. Trong năm 2003, Jaccottet nhận được giải Goncourt Prix về thơ.Năm 2013, ông là người được giới văn học tiên đoán  có thể đề cử vào giải Nobel văn học. Thơ ông được dịch ra nhiều thứ tiếng.
Giới thiệu một vài bài thơ:


1) Bài 1:

                       Les Distances

Tournent les martinets dans les hauteurs de l'air:
plus haut encore tournent les astres invisibles.
Que le jour se retire aux extrémités de la terre,
apparaîtront ces feux sur l'étendue de sombre sable...

 
 Ainsi nous habitons un domaine de mouvements
 Et de distances, ainsi le cœur
 va de l’arbre à l’oiseau, de l’oiseau aux astres lointains,
 de l’astre à son amour. Ainsi l’amour
 dans la maison fermée s’accroît, tourne et travaille
 serviteur des soucieux portant une lampe à la main
                                              Par Philippe Jaccottet

  ·  + Dịch thơ:
                  Khoảng cách
  
 Chim én trở về trong trời cao lồng lộng,
 còn cao hơn sự trở về của những vì tinh tú vô hình.
 Khi ngày rút lui về nơi tận cùng của trái đất.
 ánh lửa trời xuất hiện trùm lên bãi cát tối tăm.
  
 Cũng vậy, chúng ta đang sống trong thế giới chuyển động,
 và nhiều khoảng cách, trái tim như đồng hóa,
 đi từ cây đến chim, từ chim đến những vì sao xa xôi,
 từ những vì sao đến tình yêu. Và tình yêu nào có khác gì.
 trong ngôi nhà khép kín, càng tăng thắm thiết, trở lại cùng công việc.
 Như người đầy tớ lo âu, mang ngọn đèn soi sáng ở tay mình.
                                       HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
   (*)Đây là bài thơ được giới văn học tuyển chọn trong danh mục 50 bài thơ tình hay nhất của toàn cầu trong thời hiện đại.
  * Giới thiệu bản dịch tiếng Anh của bài thơ trên để tham khảo:
              Distances
                     
“Swifts turn in the height of the air;
higher still turn the invisible stars.
When day withdraws to the ends of the earth
their fires shine on a dark expanse of sand.


We live in a world of motion and distance.
The heart flies from tree to bird,
from bird to distant star,
from star to love; and love grows,
in the quiet house, turning and working,
servant of thought, a lamp held in one hand.”

                       Translation by Derek Mahon
  
 2) Bài 2:
                           AU PETIT JOUR
I
La nuit n'est pas ce que l'on croit, revers du feu chute du jour et négation de la lumière, mais subterfuge fait pour nous ouvrir les yeux sur ce qui reste irrévélé tant qu'on l'éclairé.
Les zélés serviteurs du visible éloignés, sous le feuillage des ténèbres est établie la demeure de la violette, le dernier refuge de celui qui vieillit sans patrie...
II
Comme l'huile qui dort dans la lampe et bientôt tout entière se change en lueur et respire sous la lune emportée par le vol des oiseaux, tu murmures et tu brûles. (Mais comment dire cette chose qui est trop pure pour la voix?)
Tu es le feu naissant sur les froides rivières, l'alouette jaillie du champ...
Je vois en toi s'ouvrir et s'entêter la beauté de la terre.

III
Je te parle, mon petit jour.
Mais tout cela ne serait-il qu'un vol de paroles dans l'air?
Nomade est la lumière.
Celle qu'on embrassa devient celle qui fut embrassée, et se perd.
Qu'une dernière fois dans la voix qui l'implore elle se lève donc et rayonne, l'aurore.

                                                         Par Philippe Jaccottet 

      ·+ Dịch thơ:
                        Với rạng đông
I
 Đêm không như người ta nghĩ, là mặt trái của lửa, sự sụp đổ của ngày, là sự phủ nhận ánh sáng, nhưng đó là cách làm chúng ta mở mắt trông thấy những gì còn lại  khi ánh sáng không thể nào tiết lộ.
 Như người phục vụ tận tình cho cái nhìn xa xôi. Dưới tán lá của bóng tối là nơi thiết lập còn lại của loài hoa tím, là nơi nương tựa cuối cùng của người già không tổ quốc.
 II
 Như chất dầu lắng ngủ trong cây đèn, bỗng nhanh chóng thay đổi hoàn toàn ánh sáng lờ mờ, và thở dưới ánh trăng được mang đến bởi cánh chim bay, em thì thầm và đốt cháy (Nhưng biết nói thế nào về những điều này khi tiếng nói đầy trong trắng).
 Em là lửa mới sinh ra từ dòng sông lạnh giá, là chim sơn ca vụt ra từ cánh đồng. Tôi thấy em mở ra và làm say mê vẻ đẹp của đất.
 III
 Tôi muốn nói với em, rạng đông của tôi!
 Nhưng tất cả điều này sẽ chỉ là những lời chớp cánh bay trong không khí.
 Du cư là ánh sáng.
 Việc chúng ta ôm hôn sẽ trở thành sự chấp nhận trong vòng tay và để rồi biến mất.
 Đó là điều sau cùng của tiếng nói khẩn cầu, vậy hãy mọc lên tỏa bừng tia sáng rạng đông.
                         HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG  dịch
                                        *  
   
  

0 Comments

Thơ  Marceline Desbordes-Valmore

6/13/2015

0 Comments

 

                     MARCELINE DESBORDES-VALMORE  
                                (1786-1859)- Pháp

Picture

                               Marceline Desbordes-Valmore
                                       (Do Carrière vẽ năm 1823)
 Sinh ở ở Douai và qua đời ở Paris, là nữ diễn viên sân khấu, ca sĩ, nữ thi sĩ và tiểu thuyết gia của Pháp. Bà là một trong những người sáng lập ra thơ ca lãng mạn Pháp năm 1819. Bà được nhà thơ Paul Verlaine đánh giá  là “người phụ nữ thiên tài và tài năng của thế kỷ này và của tất cả các thế kỷ”  (la femme de génie et de talent de ce siècle et de tous les siècles)

  1)    Bài 1:
             Les séparés

N'écris pas. Je suis triste, et je voudrais m'éteindre.
les beaux étés sans toi, c'est la nuit sans flambeau.
J'ai refermé mes bras qui ne peuvent t'atteindre,
Et frapper à mon coeur, c'est frapper au tombeau.
       N'écris pas !

N'écris pas. N'apprenons qu'à mourir à nous-mêmes
Ne demande qu'à Dieu... qu'à toi, si je t'aimais!
Au fond de ton absence écouter que tu m'aimes,
C'est entendre le ciel sans y monter jamais.
       N'écris pas !

N'écris pas. Je te crains ; j'ai peur de ma mémoire;
Elle a gardé ta voix qui m'appelle souvent.
Ne montre pas l'eau vive à qui ne peut la boire.
Une chère écriture est un portrait vivant.
       N'écris pas !

N'écris pas ces doux mots que je n'ose plus lire:
il semble que ta voix les répand sur mon coeur;
Que je les vois brûler à travers ton sourire;
Il semble qu'un baiser les empreint sur mon coeur
       N'écris pas !

                          Marceline Desbordes-Valmore
  
·                 +   Dịch thơ:
              Chia ly

 Đừng viết nữa. Em buồn, mong dập tắt.
 Hè không anh như đêm tối không đèn.
 Tay em khép không mong gì vói tới.
 Đánh động tim mình giờ như nấm mộ hoang.
 Đừng viết nữa!
  
 Đừng viết nữa. Đừng nên báo tình đôi ta sắp chết.
 Đừng hỏi Trời...vì anh biết em yêu.
 Từ sâu thẳm nghe tình anh lên tiếng.
 Vọng trời xa cách trở đến muôn chiều.
 Đừng viết nữa!
  
 Đừng viết nữa. Em sợ anh từ ký ức.
 Nó canh giữ lời anh vì hay gọi tên em.
 Bởi thấy nước mà không uống được.    (*)
 Có dung ảnh cuộc đời qua mỗi chữ thân quen.
 Đừng viết nữa!
  
 Đừng viết nữa. Lời ngọt ngào em không dám đọc.
 Mang giọng anh đổ vào trái tim em.
 Nụ cười anh dường như đang bốc cháy.
 Như nụ hôn in dấu trái tim mòn.
 Đừng viết nữa!...
                           HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
  
 (*)Câu thơ này có thể đã mượn ý từ câu chuyện thần thoại Hy Lạp. Chuyện kể rằng Tantalus phạm tội, bị thần Zeu trừng phạt, bị buộc vào một thân cây, đứng thẳng người để cằm trên mặt nước, trên đầu là quả  chín. Mặc dù bị đói khát nhưng khi Tantalus vục miệng xuống uống thì nước biến mất, với tay lên hái trái thỉ cây lùi xa.Ý nói bị trùng phạt làm cho đói khát mà không cho với tới.
 
 2) Bài 2:                    
                Les roses de Saadi
 
 

J'ai voulu ce matin te rapporter des roses ;
Mais j'en avais tant pris dans mes ceintures closes
Que les noeuds trop serrés n'ont pu les contenir.

Les noeuds ont éclaté. Les roses envolées
Dans le vent, à la mer s'en sont toutes allées. 
Elles ont suivi l'eau pour ne plus revenir ;

La vague en a paru rouge et comme enflammée. 
Ce soir, ma robe encore en est tout embaumée...
Respires-en sur moi l'odorant souvenir.

                                         Marceline Desbordes-Valmore
   ·        + Dịch thơ:
     Hoa hồng của Saadi
  
 Sáng nay, em muốn mang tặng anh những đóa hồng.
 Em hái hoa, giắt vào dải thắt lưng.
 Nút thít chặt khiến hoa không chứa hết.
  
 Khi nút bung, hoa bị đánh rơi.
 Bay ra biển, cánh tung đường gió rải.
 Hoa theo nước không mong gì trở lại.
 
 Sóng rực lên như lửa đỏ cháy bừng.
 Áo em đến chiều còn đọng mùi thơm.
 Hãy hít thở cùng em chút hương thầm kỷ niệm.
             HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
       
(*)  Saadi (Sa‘di)  tên nhà thơ, nhà tư tưởng Ba Tư trung cổ  (khoảng 1203 – 1291?), tác giả của những bài thơ, danh ngôn đã trở thành phổ biến trong văn học cổ Ba Tư. Ông có tác phẩm nổi tiếng là Gulistan (Vườn hồng) nói về mọi mặt của cuộc sống và vườn hồng của ông được xem là vườn của sự quán tưởng. Theo Saadi thì hoa hồng mang rất nhiều ý nghĩa, nhưng ý nghĩa bao trùm hơn hết đó là sự tượng trưng cho cái đẹp của  tình yêu và nghững gì cao quý nhất.

                                             *

 

0 Comments

Thơ Anna de Noailles

6/13/2015

0 Comments

 

                             Anna de Noailles
                        (Pháp 1876 - 1933) - Pháp

Picture

Anna de Noailles có tên thật là Anna Brancovan, sinh tại Paris, Pháp. Bà là công chúa, con của thân vương Rumani, mẹ là nhạc sỹ người Hy Lạp. Năm 1897, bà lấy Mathieu de Noailles (1873-1942) và trở thành bà Bá tước Anna de Noailles.
         Bà là nhà thơ nữ danh tiếng của thi ca Pháp trong thời kỳ ấy, là phụ nữ đầu tiên được thưởng Bắc đẩu bội tinh.  

 1)     Bài 1:
             L'empreinte 

Je m'appuierai si bien et si fort à la vie, 
D'une si rude étreinte et d'un tel serrement,
Qu'avant que la douceur du jour me soit ravie 
Elle s'échauffera de mon enlacement. 

La mer, abondamment sur le monde étalée,
Gardera, dans la route errante de son eau, 
Le goût de ma douleur qui est âcre et salée 
Et sur les jours mouvants roule comme un bateau. 

Je laisserai de moi dans le pli des collines 
La chaleur de mes yeux qui les ont vu fleurir, 
Et la cigale assise aux branches de l'épine 
Fera vibrer le cri strident de mon désir. 

Dans les champs printaniers la verdure nouvelle, 
Et le gazon touffu sur le bord des fossés 
Sentiront palpiter et fuir comme des ailes 
Les ombres de mes mains qui les ont tant pressés. 

La nature qui fut ma joie et mon domaine 
Respirera dans l'air ma persistante ardeur, 
Et sur l'abattement de la tristesse humaine 
Je laisserai la forme unique de mon coeur...

 ·      +  Dịch thơ:
                Dấu ấn
  
 Tôi tựa cuộc đời, vững lòng, tin tưởng đẹp.
 Thô thiển ôm ghì, như siết chặt nhiều hơn.
 Ngày êm dịu đã qua, vui náo nức.
 Hun nóng cho tôi cuộn riết cả tâm hồn.
  
 Biển phong phú phô bày quanh thế giới.
 Vẫn có cách canh chừng con nước lạc về đâu.
 Vị đau đớn cho tôi nồng và mặn.
 Mỗi ngày qua chuyển động tựa con tàu.
  
 Tôi bỏ lại những ngọn đồi khúc khuỷu.
 Sự ấm nồng trong mắt nở bừng hoa.
 Và tiếng ve ẩn trong cành gai góc.
 Đã rộ lời khao khát, khắp gần xa.
  
 Trên cánh đồng mùa xuân xanh sắc mới.
 Ven bờ mương những bãi cỏ um tùm.
 Nỗi phập phòng sợ e đôi cánh thoát.
 Bóng tay tôi để xuống sát gần hơn.
  
 Thiên nhiên tặng cả niềm vui thanh thản.
 Tôi mải mê say hít thở khí trời.
 Trong mệt mỏi của nỗi buồn nhân thế.
 Tôi bỏ lại thể hình duy nhất của tim tôi.
               HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch 
  
 2)     Bài 2:
Ce que je voudrais? Je ne sais 

Ce que je voudrais? Je ne sais. 
Je t’aime de tant de manières 
Que tu peux choisir. Fais l’essai 
De ma tendresse nourricière. 

Chaque jour par l’âme et le corps 
J’ai renoncé quelque espérance, 
Et cependant je tiens encor 
À mon amoureuse éloquence, 

À cet instinct qui me soulève 
De combler d’amour ta torpeur; 
— Et tandis que ton beau corps rêve, 
Je voudrais parler sur ton cœur…


·       + Dịch thơ:
 Em muốn gì? Em không biết nữa

Em muốn gì? Em không biết nữa.
 Em yêu anh theo nhiều cách của mình.
 Anh thử yêu và có quyền chọn lựa.
 Để dưỡng nuôi, âu yếm với tình anh.
  
 Cho mỗi ngày bằng tâm hồn, thể xác.
 Em khước từ cả hy vọng ước mong.
 Không những thế em dành nhiều hơn nữa.
 Để người yêu được tin tưởng yên lòng.
  
 Cả bản năng có thì thầm đánh thức..
 Tràn ngập tình yêu gây ngơ ngẩn tinh thần.
 Nhưng chính lúc anh mơ thân thể đẹp.
 Em sẽ nói về sự thật trái tim anh.
             HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch

 

 

 

0 Comments

Thơ Pierre de Ronsard

6/12/2015

0 Comments

 

                                 Pierre de Ronsard
                                   (1524 – 1585) – Pháp

Picture

Là nhà thơ Pháp thời Phục Hưng, người đứng đầu lập ra thi phái La Pleiade (Thất Tinh hay còn gọi là Tao Đàn),có ảnh hưởng đến nhiều thế kỷ sau. Các nhà phê bình gọi Ronsard là ông tổ của thơ trữ tình Pháp. Và ông cũng là người mở đường cho thơ lãng mạn Pháp sau này.
Một số bài thơ nổi tiếng của ông :


 1) Bài 1:
Sonnets pour Hélène 

Quand vous serez bien vieille, au soir, à la chandelle,
Assise auprès du feu, dévidant et filant,
Direz, chantant mes vers, en vous émerveillant :
« Ronsard me célébrait du temps que j'étais belle ! »

Lors, vous n'aurez servante oyant telle nouvelle,
Déjà sous le labeur à demi sommeillant,
Qui au bruit de mon nom ne s'aille réveillant,
Bénissant votre nom de louange immortelle.

Je serai sous la terre, et, fantôme sans os,
Par les ombres myrteux je prendrai mon repos ;
Vous serez au foyer une vieille accroupie,

Regrettant mon amour et votre fier dédain.
Vivez, si m'en croyez, n'attendez à demain :
Cueillez dès aujourd'hui les roses de la vie.


·       + Dịch thơ:
         Gửi Hélène 
  
 Khi luống tuổi, đêm về chong ngọn nến.
 Bên lửa hồng, em kéo sợi quay tơ.
 Ngâm thơ tôi, em kinh ngạc không ngờ.
 Ronsard đã có thời ngợi ca mình xinh đẹp
  
 Giờ, nữ tỳ không thể còn nghe tiếp.
 Việc nhọc nhằn, chợp mắt ngủ thiu thiu.
 Cả tên tôi không thức tỉnh được nhiều.
 Dẫu em được vinh danh lời ngợi ca bất tử.
  
 Tôi sẽ về lòng đất sâu yên ngủ.
 Thành bóng ma vất vưởng cõi u linh.
 Em già nua, bên lò sưởi ngẫm mình.
  
 Tiếc tình tôi, tiếc cho em đã kiêu kỳ hờ hững.
 Hãy tin tôi, đừng đợi đến ngày mai, hãy sống.
 Hãy đón nhận hôm nay đóa hồng của cuộc đời.
             HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
  
 (*) Hélène là tên một người hầu danh dự của hoàng hậu Catherine de Médicis, nàng có nhan sắc xinh đẹp lộng lẫy nhưng lại rất kiêu kỳ.Ronsard găp nàng vào năm 1578, trong một buổi tiệc do hoàng hậu tổ chức với sự có mặt của Hélène đón tiếp.  Buổi tiệc này đã  mời nhiều người có tên tuổi đến tham dự với mục đích để an ủi, tôn vinh Hélène, người đẹp có vị hôn phu vừa mới chết trận.
 Bài “Pour Hélène” cũng là nguồn cảm hứng sau này cho nhà thơ Ireland là   William Butler Yeats (1865 - 1939), người đoạt giải Nobel Văn học năm 1923) đã sáng tác bài . “When You Are Old” (Khi em đã già)như sau:

     When You Are Old
When you are old and grey and full of sleep,
And nodding by the fire, take down this book,
And slowly read, and dream of the soft look
Your eyes had once, and of their shadows deep;

How many loved your moments of glad grace,
And loved your beauty with love false or true,
But one man loved the pilgrim Soul in you,         
And loved the sorrows of your changing face;

And bending down beside the glowing bars,
Murmur, a little sadly, how Love fled
And paced upon the mountains overhead
And hid his face amid a crowd of stars.
                    by 
William Butler Yeats 
+ Dịch thơ:

      Khi em đã già...

Khi tóc bạc, tuổi già, thừa giấc ngủ.
Bên lửa hồng, em mở sách này xem.
Và đọc chậm, vẻ mơ màng lắng dịu.
Trong mắt xưa sâu thẳm bóng u huyền.

Bao người yêu nhất thời, vui vẻ đẹp.
Họ si mê giả dối hoặc chân tình.
Riêng có kẻ - yêu hồn em lãng đãng.
Khuôn mặt buồn biến đổi nét hoa xinh.

Yêu dáng em cúi mình cời ngọn lửa.
Thoáng sầu tư, tim khẽ gọi xôn xao.
 Khi tình xa, chớp cánh về ngọn núi.
Giấu mặt mình, lẩn khuất giữa ngàn sao!
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch


  2) Bài 2:
         La Rose

Mignonne, allons voir si la rose
Qui ce matin avait déclose
Sa robe de pourpre au soleil,
A point perdu cette vesprée
Les plis de sa robe pourprée,
Et son teint au vôtre pareil.

  
Las ! voyez comme en peu d’espace,
Mignonne, elle a dessus la place,
Las, las ses beautés laissé choir !
Ô vraiment marâtre Nature,
Puisqu’une telle fleur ne dure
Que du matin jusques au soir !

 
Donc, si vous me croyez, mignonne,
Tandis que votre âge fleuronne
En sa plus verte nouveauté,
Cueillez, cueillez votre jeunesse :
Comme à cette fleur, la vieillesse
Fera ternir votre beauté.

       Pierre de Ronsard, Les amours de Cassandre, 1552

·       + Dịch thơ:
        Hoa hồng

Cô gái yêu, hãy ngắm đóa hồng.
Sáng hôm nay, hoa nở xòe bung cánh.
Màu áo hoa dưới mặt trời đỏ thắm.
Rồi sẽ úa dần theo trong buổi chiều tà.
Để lại nếp nhàu trong cánh đỏ kiêu sa,
Trong làn da nõn nà cũng giống như em vậy.
 
Ôi! Cứ xem như một thoáng không gian.
Cô gái yêu, em qua thời điểm ấy.
Mọi vẻ đẹp bị vô tình bỏ phí.
Khắt khe thay, bà mẹ ghẻ thiên nhiên.
Bởi đời hoa không thể kéo dài hơn.
Từ buổi sáng hồng đến khi chiều tối.
 
Vậy, nếu tin anh, cô gái dễ thương.
Trong độ tuổi hoa nở bừng hương sắc.
Với ngày xanh tươi trẻ nhất.
Em hãy hái cho mình một đóa tuổi xuân.
Đừng để như hoa tàn úa khô dần.
Đừng để vẻ đẹp em phai mờ đáng tiếc.

 
            HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch

(*) Bài thơ này ở trong bộ sưu tập Cassandra Loves xuất bản năm 1552. Đầu đề bài thơ còn có tên khác là “Ode à Cassandre”(Thơ ngợi ca Cassandre). Cassandre là một tiểu thư có tên đầy đủ là Cassandre Salviati – con của một vị chủ ngân hàng Ý, nhà thơ gặp cô vào năm 1545.
    Cũng như các nhà thơ khác thời Phục hưng, Ronsard lấy hoa hồng làm biểu tượng cho tình yêu. Ông ca ngợi tuổi trẻ, và sắc đẹp có mãnh lực thu hút của phái nữ đồng thời nêu lên sự tàn hủy khắc nghiệt của thời gian, bởi vậy con người phải tranh thủ bắt kịp những phút giây quí giá của nó để dành cho tình yêu.Đây là chủ đề chung của nhiều nước ở vào thời kỳ đó.
 

3) Bài 3:
 Sonnet à Marie
  
Je vous envoie un bouquet que ma main
Vient de trier de ces fleurs épanies ;
Qui ne les eût à ce vêpre cueillies,
Chutes à terre elles fussent demain.

Cela vous soit un exemple certain
Que vos beautés, bien qu'elles soient fleuries,
En peu de temps cherront toutes flétries,
Et, comme fleurs, périront tout soudain.

Le temps s'en va, le temps s'en va, ma dame ;
Las ! le temps, non, mais nous nous en allons,
Et tôt serons étendus sous la lame ;

Et des amours desquelles nous parlons,
Quand serons morts, n'en sera plus nouvelle.
Pour c'aimez-moi cependant qu'êtes belle.


  ·      +  Dịch thơ:
 Bài Sonnet  gửi Marie
  
Tôi muốn gửi em bó hoa trong tay.
 Hoa được chọn khi vừa mới nở.
 Nếu không hái buổi chiều nay.
 Hoa sẽ rụng ngày mai đầy đất.
  
 Điều này cho em bằng chứng hiển nhiên.
 Vẻ đẹp em như hoa tươi thắm.
 Với khoảnh khắc thời gian, mọi bông hoa sẽ úa tàn nhanh chóng.
 Người cũng như hoa sẽ biến khỏi cuộc đời.
  
 Thời gian đi! Thời gian đi! Người phụ nữ của tôi!
 Ôi! Thời gian! Không! Nhưng chúng ta rồi cũng đi như thế!
 Sẽ sớm bị cuốn theo làn sóng trôi lặng lẽ.
  
 Hãy để chúng ta được bày tỏ tình yêu.
 Khi mất đi sẽ không hối tiếc nhiều.
 Hãy cứ yêu nhau khi em còn trẻ đẹp.
                         HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch


            

Picture
0 Comments
<<Previous

    DANH MỤC TÁC GIẢ:

    All
    Alfred De Musset
    Anna De Noailles - Pháp
    Arthur Rimbeau - Pháp
    Charles Baudelaire
    Chateubriand
    Edmond Haraucourt
    Félix Arvers
    Fredéric Mistral - Pháp
    Gérard De Nerval
    Gốc Thụy Sĩ)
    Guillaume Apollinaire
    Jacques Prévert
    Jean Coteau - Pháp
    Lamartine
    Louis Aragon - Pháp
    Marceline Desbordes - Valmore (Pháp)
    Paul Éluard
    Paul Verlaine
    Philippe Jaccottet (Pháp
    Pierre De Ronsard - Pháp
    Pierre-René Favre
    Stéphane Mallarme - Pháp
    Sully Prudhomme - Pháp
    Théophile Gautier - Pháp
    Victor Hugo

Powered by Create your own unique website with customizable templates.