(813 - 858)
Tự là Nghĩa Sơn (義 山) , hiệu là Ngọc Khê sinh (玉谿生). Người huyện Hà Nội (nay là phủ Hoài Khánh, tỉnh Hà Nam) Trung Quốc.
Năm 839, ông đỗ tiến sĩ nhưng ông đã sớm trở thành nạn nhân của hai phái Ngưu – Lý đang thao túng quyền hành, tranh chấp, bài xích nhau trong triều đình. Ông bị vạ lây nên con đường hoạn lộ không ra gì, suốt đời long đong khốn khổ. Ông mất năm 858 ở đất Trịnh Châu khi chỉ mới 46 tuổi.
Lý Thương Ẩn là nhà thơ rất đặc sắc thời Vãn Đường, ông có ảnh hưởng rất lớn đối với thi đàn đời Tống. Vương An Thạch khen thơ ông tài tình giống thơ Ðỗ Phủ. Các nhà thơ thuộc phái Tây Côn chủ trương mô phỏng thơ ông khi sáng tác. Cho tới ngày nay chất tài hoa trong thơ ông ngày càng được sáng tỏ và được nhiều thế hệ mến mộ.
Tác phẩm gồm có: Phàn nam giáp tập (20 quyển), Ất tập (20 quyển), Ngọc Khê sinh thi (3 quyển). Ngoài ra còn có một quyển phú và một quyển văn. Ngày nay thơ ông còn lại khoảng 600 bài. Đặc biệt nổi tiếng về thơ tình. Tương truyền ông từng luyến ái với nữ đạo sĩ Tống Hoa Dương và các cung nữ như Lư Phi Loan, Khinh Phượng.
Sau đây là một số bài thơ đặc sắc tiêu biểu của ông:
I) Bài thơ “ Cẩm sắt”
1)Bản chữ Hán phồn thể:
錦 瑟
錦 瑟 無 端 五 十 絃
一 絃 一 柱 思 華 年
莊 生 曉 夢 迷 蝴 蝶
望 帝 春 心 託 杜 鵑
滄 海 月 明 珠 有 淚
藍 田 日 暖 玉 生 煙
此 情 可 待 成 追 憶
只 是 當 時 已 惘 然
李 商 隱
2) Bản chữ Hán giản thể:
锦 瑟
锦 瑟 无 端 五 十 絃
一 絃 一 柱 思 华 年
庄 生 晓 梦 迷 蝴 蝶
望 帝 春 心 讬 杜 鹃
沧 海 月 明 珠 有 泪
蓝 田 日 暖 玉 生 烟
此 情 可 待 成 追 忆
只 是 当 时 已 惘 然
李 商 隱
*Dịch âm:
CẨM SẮT
Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền (1+2)
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp (3+4)
Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên (5)
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ (6)
Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên (7)
Thử tình khả đãi thành truy ức (8)
Chỉ thị đương thì dĩ võng nhiên (9+10)
*Lý Thương Ẩn
*Chú thích:
1) Cẩm sắt: 錦 瑟.Tên một loại đàn cổ.Đàn trang sức bằng ngọc quí gọi là bảo sắt. Đàn vẻ hoa văn đẹp như gấm gọi là cẩm sắt (Theo sách Chu lễ nhạc khíđồ).
Có người dịch là đàn gấm . . Theo truyền thuyết đàn này do thần linh chế tác. Sau Phục Hy giao cho Tố Nữ giữ và dạy cho con người biết đàn. Vì sự tích đó mà sau này người ta đã vẽ tranh Tố Nữ đánh đàn ở các bức tứ bình với ngụ ý chỉ tình duyên đẹp đẽ mơ mộng như cây đàn cẩm sắt.
2) Vô đoan 無 端(vô : không . Đoan:1. đầu , mối. 2.Nguyên nhân ). Vô đoan: Có người hiểu là “không có đầu”: có người cho là “Không có nguyên nhân gì, không có lý do gì, không có manh mối gì.
3) Hiểu mộng曉 夢: Hiểu có nghĩa: buổi sớm ; có nghĩa khác là biết rõ. Mộng là giấc mơ, giấc chiêm bao). Có người cho hiểu mộng là giấc mộng buổi sớm. Có người khác lại cho hiểu mộng là “tỉnh mộng” biết rõ mình gặp mộng vì căn cứ theo nội dung câu chuyện ở Tề vật luận sẽ nói ở bên dưới.
Tuy nhiên căn cứ theo cách đối trong bài thơ : “hiểu mộng” đã đối với “xuân tâm” thì hiểu mộng là mộng sớm. Vì không ai đem “ động từ + danh từ” (tỉnh+ mộng) đối với một danh từ “lòng xuân”(xuân tâm) nhất là đối với một nhà thơ điêu luyện như Lý Thương Ẩn.
4) Trang sinh – hồ điệp:
Trang sinh còn gọi là Trang Tử hay Trang Chu. Tên của nhà hiền triết thời Chiến quốc, học thức uyên bác, thường truyền bá tư tưởng của Lão Tử. Sở Oai vương nghe ông là người hiền, mời ông ra làm tể tướng nhưng ông không nhận. Ở sách Trang Tử, trong thiên Tề vật luận có đề cập chuyện: Trang Tử nằm mộng thấy mình hóa bướm (hồ điệp) bay nhởn nhơ. Khi tỉnh dậy, với tâm hồn thư thái, ông vẫn còn phân vân không biết mình là bướm hay là người.
5) Vọng đế - đỗ quyên:
-Vọng đế có tên là Đỗ Vũ, là vua nước Thục nên còn gọi là Thục đế.
- Đỗ quyên: còn gọi là Tử qui hay Đỗ Vũ. Đỗ quyên ở Việt nam cho là con
chim cuốc vì có tiếng kêu “quốc quốc 國國”. Đây là theo âm Hán-Việt chứ thực ra chữ quốc 國 theo âm bạch thoại đọc là kũa. Người Trung Quốc gọi đỗ quyên là con chim tu hú. Cả Trung Quốc và Việt nam đều cho chim đỗ quyên mang hình ảnh “tượng trưng cho lòng nhớ nước”.
Theo điển tích, Đỗ Vũ là vua nước Thục . Trong một trận đại thủy tai, ông có sai bầy tôi là Miết Linh (có tài liệu gọi là Biết Linh) ra làm công tác khắc phục lũ lụt. Ở triều , ông vua này lại tư tình với vợ Miết Linh. Đến khi Miết Linh về, ông lại nghe lời người đàn bà này truyền ngôi cho Miết Linh rồi đi vào rừng ẩn dật. Sau Thục đế chết hóa thành chim đỗ quyên có tiếng kêu “quốc quốc” vì tiếc thương nhớ nước.
6)Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ: Trăng sáng biển xanh châu có lệ (nước mắt). Có người cho hạt châu đây là giọt nước từ mái chèo nhỏ xuống trong ánh trăng. Nhưng theo Bác vật chí thì ở ngoài bể Nam hải, có giống người Dao sống dưới nước như cá. Mắt họ khi khóc sẽ sinh ra ngọc. Lúc trăng sáng tỏ, ngọc có nhiều. Lúc trăng khuyết ngọc sẽ vơi theo. Lại có một điển tích khác, theo Biệt quốc động minh ký thời Lục Triều, thì ngày xưa có người lặn xuống đáy biển tìm ngọc, lạc vào cung điện của nhân ngư, tìm được bảo ngọc do nước mắt của nhân ngư đọng lại .
7) Lam Điền:Tên một huyện vùng núi ở tỉnh Thiểm Tây. Nơi đây có núi Ngọc Sơn, có nhiều ngọc quí. Theo sách Sưu thần ký, đời Đường có ông Dương Bá Ung người nhân đức, hay giúp người nghèo khó. Sau có người đem cho một nắm sỏi, bảo ông đem gieo ở núi Lam Điền về sau sẽ có bích ngọc và ông sẽ
cưới được cô gái họ Từ xinh đẹp. Ông làm theo và quả nhiên được như ý.
8) Khả đãi (可 待) : Khả : Phải nên, đáng để, có thể ,có lẽ, hình như...Đãi : đợi.
Khả đãi : có thể đợi, đáng đợi.
9) Đương thì (當 時): Đang lúc ấy, đang thuở ấy
10) Võng (惘):Theo tự điển Hán-Việt củaThiều Chiểu: chán nản phiền muộn, dáng thất chí. Theo Tân biên Hoa-Viêt từ điển của Lý Văn Hùng: Lòng hoang mang. Như vậy, “võng nhiên” có thể hiểu là trạng thái chán nản, thất vọng hoặc trạng thái hoang mang, mơ hồ. Google lại dịch là thất vọng, cô đơn.Còn theo tài liệu của ông Vĩnh Sinh thì lại dịch “Võng nhiên” với nghĩa: không có gì, không biết gì cả, ngơ ngác như mất hồn, phôi pha (?)
*Đôi lời bàn thêm về bài thơ”Cẩm sắt”:
Sở dĩ chúng tôi chú thích nhiều như ở trên vì bài thơ này khá đặc biệt.
Nhiều nhà phê bình đã cho thơ của Lý Thương Ản có phong cách lãng mạn, cấu tứ kỳ công, tình ý sâu kín, sử dụng chuẩn mực nhiều điển tích giàu hình tượng và nhiều ẩn dụ khó giải mã. Điển hình là bài thơ “Cẩm sắt”. Bài này được cho là bài thơ hay nhất và khó hiểu nhất của ông. Bỡi vậy , Vương Sĩ Trinh-nhà phê bình đời Thanh, đã đưa ra nhận xét: “Nhất biến cẩm sắt giải nhân nan”(Bài thơ cẩm sắt hiểu sao đây?). Đồng thời trong Vi lô thi thoại, nhà phê bình Ngô Kiều cũng đã có ý kiến: “Con đường ý tứ của Lý Thương Ẩn đã thâm sâu ảo diệu mà ông còn đặt lời để chẳng ai còn biết được ý ông. Bỡi thế thơ ông đến nay đã 700 năm mà vẫn ít người biết đến”.
Những lời nhận xét trên thật xác đáng. Mặc dù nhiều người thuộc lòng các điển tích và các từ ông đã sử dụng nhưng để hiểu chính xác dụng ý của ông thì không ai dám tin chắc.Tự thân của nó khiến cho nhiều người đã giảng nghĩa khác nhau .
Thật vậy, mới khởi đầu vào câu thơ thứ nhất đã gặp khó khăn ở “vô đoan”, có người đã dịch: cẩm sắt là một thứ đàn không có đầu, trên có 50 dây (Ông Trần Trọng San). Một số người khác lại dịch với nghĩa “không hiểu vì sao, do đâu, không rõ manh mối (Các ông: Huỳnh Minh Đức, Ngô Văn Phú, Phùng Hoài Ngọc.vv...). Tiếp đến hiểu mộng cũng thế. Có người dịch là mộng sớm, giấc mộng buổi sớm (Trần Trọng San, Vĩnh Sinh...). có người hiểu hoặc dịch là “Tỉnh mộng”(Đào Duy Anh, Huỳnh Minh Đức...). Đến hai câu kết: “Thử tình khả đãi thành truy ức. Chỉ thị đương thì dĩ võng nhiên” lại càng khó hiểu và có rất nhiều người dịch khác nhau. Chúng tôi có thể đơn cử một số tác giả sau:
- Ông Trần Trọng San ( Thơ Đường, dạy Hán văn ở trường đại học):
Mối tình đẹp đẽ thời hoa niên ngày nay không tìm được nữa. Ta hãy để
cho tình ấy thành ra kỷ niệm êm đềm. Nhưng tiếc thay thuở xưa, tình ấy đã là một mối tình tuyệt vọng làm ta đau khổ chán chường.
Và ông đã dịch thơ:
Tình này hãy đợi nên niềm nhớ
Tiếc đã xưa kia lỗi ước nguyền.
- Ông Huỳnh Minh Đức (dịch giả Trung Quốc triết học sử, dạy Hán văn trường đại học):
Tình này đã sớm trở thành nhớ nhung về dĩ vãng
Cho đến bây giờ thì chỉ còn lại nỗi đau thương.
. Dịch thơ: Tình này sớm tạo niềm nhung nhớ
Là buổi đàu tiên chút nỗi niềm
- Ông Nguyễn Văn Xung (dạy văn đại học): Cũng hiêu theo ý trên và đã dịch thành thơ:
Tình ta còn nhớ những ngày
Riêng nay lòng đã nguôi khuây lòng sầu
-Ông Ngô Văn Phú (dịch giả 300 bài thơ Đường):
Tình ấy nên dằng dai nhớ mãi
Hay chỉ là nỗi lòng vu vơ trong thoáng chốc
.Dịch thơ: Dằng dai tình ấy nên đeo đuổi
Hay cõi mơ hồ nhớ phút giây
-Ông Phùng Hoài Ngọc (tác giả Thi ca từ Trung Hoa, dạy Trung văn đại học):
Tình này dằng dai ghi nhớ mãi
Hay chỉ là nỗi lòng gắt gay trong thoáng chốc
vv...........
Còn rất nhiều tác giả có cách dịch khác nữa mà chúng tôi không thể nêu ra hết trong khuôn khổ nhỏ hẹp của bài này. Tuy nhiên chỉ vài ví dụ trên ta cũng thấy sự ẩn diệu khó giải mã của bài thơ – và đố ai dám cho mình hiểu chính xác hoàn toàn như đã nói ở trên. Chúng tôi là những kẻ hậu sinh có may mắn được học hỏi các lời diễn giải của các bậc dịch giả đi trước nhưng vẫn thấy băn khoăn về ý nguyên tác của nó.
Bài thơ nguyên tác cực hay, được giới lý luận phê bình văn học Trung Quốc khám phá mổ xẻ từng câu từng chữ. Tuy nhiên cũng không khẳng định được dụng ý của nó Vì hay nên có nhiều người đã chịu ảnh hưởng trong phong cách sáng tác. Riêng ở Việt Nam, thi hào Nguyễn Du đã vận dụng phong cách diễn đạt về tiếng đàn của Lý Thương Ẩn để áp dụng việc diễn đạt tiếng đàn của Kiều qua 3 lần đánh đàn. Ở lần thứ 3 (lúc Kiều gặp lại Kim Trọng cuối đời), Nguyễn Du đã mượn ý của bài Cẩm Sắt để diễn tả như sau:
Câu 3199: Khúc đâu đầm ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh?
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên?
Trong sao châu rỏ duềnh quyên
Câu 3204: Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông...
Bài thơ đặc sắc nhưng khi chuyển qua tiếng Việt để có bản dịch hay quả là nhiêu khê. Các bản dịch của tiếng Việt đã gặp phải khó khăn lớn vì bị hạn chế ở vần gieo, cách đối, ở lượng nghĩa từ và sự đối ngược âm bằng trắc ở tiếng Việt so với tiếng Trung, cho nên chưa có ai đạt được điều mình mong muốn trong bản dịch của mình. Trước trở lực này, có lẽ về dài về lâu mới có được một bản dịch hay về “Cẩm sắt” và có chuẩn mực đúng nghĩa với một bài thơ Đường. Tạm thời chúng ta nên thông cảm chấp nhận với những gì đang có.
Sau đây là bản dịch góp mặt của chúng tôi:
*Dịch nghĩa:
ĐÀN CẨM SẮT
(Cây đàn gấm)
Không biết từ đâu cây đàn gấm có năm mươi dây
Mỗi dây một trụ làm cho ta nhớ lại những ngày của tuổi hoa niên
(Qua tiếng đàn , ta ngỡ có) Trang sinh trong giấc mộng buổi sớm
còn mơ mình hóa bướm.
Có lòng xuân của Vọng đế gởi vào chim đỗ quyên
(Có lúc trong suốt như ) trăng sáng biển xanh làm hạt châu nhỏ lệ.
(Có lúc đầm ấm như ) nắng Lam Điền, làm ngọc sinh thành khói.
Tình này có thể đợi gây thành nỗi nhớ.
Hay chỉ là một thoáng mơ hồ về tự cõi xưa?.
*
· HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
*Dịch thơ:
ĐÀN CẨM SẮT
(ĐÀN GẤM)
Vì đâu đàn gấm năm mươi sợi
Xui từng dây trục nhớ hoa niên?
Trang sinh mộng sớm mê hồn bướm
Vọng đế lòng xuân gởi đỗ quyên
Trăng sáng biển xanh châu ánh lệ
Nắng pha khói ấm ngọc Lam Điền
Tình này có đợi gây niềm nhớ
Hay chỉ mơ hồ một cõi riêng ?
*HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
1) Bản dịch của Trần Trọng San:
CÂY ĐÀN GẤM
Năm chục tơ đồng những sợi duyên
Mỗi dây, mỗi trụ nhớ hoa niên
Trang sinh mộng sớm lần bươm bướm
Thục đế lòng xuân gởi đỗ quyên
Trăng chiếu lệ châu ngời biển rộng
Nắng phơi khói ngọc ấm Lam Điền
Tình này hãy đợi nên niềm nhớ
Tiếc đã xưa kia lỗi ước nguyền
2) Bản dịch của Nguyễn văn Xung:
ĐÀN CẦM SẮT
Chiếc đàn năm chục mối dây
Mỗi dây một trục nhớ ngày hoa niên
Trang sinh mộng bướm còn quên
Lòng xuân Thục đế , đỗ quyên kiếp người!
Biển xanh lệ ánh trăng soi
Lam Điền nắng ấm châu ngời khói mây
Tình ta còn nhớ những ngày...
Riêng nay sầu đã nguôi khuây lòng sầu.
*Bản dịch của Ngô Văn Phú:
NGHE ĐÀN CẨM SẮT
Cẩm sắt, cây đàn năm chục dây,
Tuổi hoa vương vấn mỗi dây này.
Trang sinh mộng sớm mơ thành bướm,
Vọng đế lòng xuân gởi cuốc gầy.
Trăng sáng, biển xanh châu ngấn lệ,
Lam Điền, nắng ấm ngọc nhòa mây.
Dằng dai tình cũ nên đeo đuổi,
Hay cõi mơ hồ nhớ phút giây
*********
II)Thơ vô đề bài 4:
無題
其四
相 見 時 難 別 亦 難,
東 風 無 力 百 花 殘。
春 蠶 到 死 絲 方 盡,
蠟 炬 成 灰 淚 始 幹。
曉 鏡 但 愁 雲 鬢 改,
夜 吟 應 覺月光寒。
蓬萊此去無多路,
青鳥殷勤為探看。
李商隱
*Dịch âm:
Vô Đề
Kỳ Tứ
Tương kiến thì nan biệt diệc nan,
Đông phong vô lực bách hoa tàn.
Xuân tàm đáo tử ty phương tận,
Lạp cự thành hôi lệ thuỷ can.
Hiểu kính đãn sầu vân mấn cải,
Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn.
Bồng Lai thử khứ vô đa lộ,
Thanh điểu ân cần vị thám khan.
*Lý Thương Ẩn
*Dịch nghĩa:
VÔ ĐỀ
(Bài 4)
Gặp nhau đã khó mà xa nhau cũng khó
Gió xuân vô tình để trăm hoa tàn tạ
Tằm xuân đến chết tơ mối thôi nhả
Nến sáp thành tro, lệ nhỏ mới khô
Buổi sáng soi gương thấy sầu vì tóc mai đổi màu mây
Đêm ngâm thơ thấy lạnh vì ánh trăng sáng
Cõi Bồng Lai muốn tới nhưng không có nhiều lối đi
Phải ân cần nhờ chim xanh tìm gặp để thấy nhau.
· HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
*Chú thích:
-Bồng Lai:Theo truyền thuyết, Bồng Lai là tên của một trong ba ngọn núi đảo ở Bột Hải (Trong Bột Hải có 3 đảo: Bồng Lai, Phương Trượng và Dinh Châu. Xung quanh 3 đảo này được bao bọc bời một làn nước rất yếu gọi là Nước Nhược). Tương truyền đây là nơi tiên ở. Nghĩa bóng chỉ chỗ ở đẹp đẽ thích thú.
- Chim xanh( Thanh điểu): Người dẫn mối. Người đưa tin tức mối lái giữa trai gái có tình với nhau.
*Dịch thơ:
VÔ ĐỀ
Gặp nhau đã khó , xa càng khó
Gió xuân vô ý để hoa tàn
Con tằm đến chết tơ thôi nhả
Ngọn nến thành tro lệ mới tan
Sáng ngắm gương sầu mây tóc điểm
Đêm ngâm thơ lạnh khói trăng tràn
Bồng Lai muốn đến không nhiều nẻo
Phải cậy chim xanh giúp gặp nàng.
*HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
1) Bản dịch của Trần Trọng San
VÔ ĐỀ
Xa nhau khó tựa gặp nhau ,
Gió đông không sức , hoa rầu xác xơ .
Thác rồi , tằm mới hết tơ ;
Tàn rồi , nến mới cạn khô lệ sầu .
Soi gương , buồn tóc đổi màu ;
Ngâm đêm , mới biết trăng thâu lạnh lùng .
Có xa xôi mấy non Bồng ,
Dò đường hỏi lối , cậy cùng chim xanh .
2) Bản dịch của Khương Hữu Dụng và Tương Như
VÔ ĐỀ
Khó gặp nhau mà cũng khó xa,
Gió xuân đành để rụng trăm hoa.
Con tằm đến thác tơ còn vướng,
Chiếc nến chưa tàn lệ vẫn sa.
Sáng ngắm gương buồn thay mái tuyết,
Đêm ngâm thơ thấy lạnh trăng ngà.
Bồng lai tới đó không xa mấy,
Cậy với chim xanh dọ lối mà.
3)Bản dịch của Đông A
VÔ ĐỀ
Đã khó gặp nhau lại khó xa
Gió đông sức cạn rụng trăm hoa
Tằm xuân đến thác tơ đành dứt
Nến sáp khi tàn lệ kiệt sa
Sớm ngắm chạnh buồn mây tóc điểm
Đêm ngâm chợt cảm lạnh trăng tà
Bồng lai đến đó khôn nhiều lối
Dò hỏi chim xanh hậu giúp mà
4) Bản dịch của Ngô Văn Phú:
KHÔNG ĐỀ
Gặp nhau thường khó, khó chia xa
Ngọn gió thôi đành phải phụ hoa
Dẫu thác, thân tằm tơ rút cạn,
Thành tro, giọt nến lệ còn sa.
Soi gương buổi sớm, buồn phơ tóc.
Ngâm ngợi thơ đêm, nguyệt lạnh mờ.
Đường tới Bồng Sơn xa chẳng mấy,
Chim xanh nhắn hỏi giúp cho ta
*